Phát biểu tại Hội thảo chuyên đề “Tư duy và cách tiếp cận mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” trong khuôn khổ Diễn đàn cấp cao về Công nghiệp 4.0 lần thứ ba – Industry Summit 4.0, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh, qua 35 năm đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Việt Nam đã có bước chuyển đổi sâu sắc. Từ một quốc gia kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp, đến nay Việt Nam đã thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cải thiện và được đánh giá cao.

Doanh nghiệp Việt đang “đứng ngoài” cuộc cách mạng công nghiệp

Hội thảo chuyên đề “Tư duy và cách tiếp cận mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Quá trình còn công nghiệp hoá chậm

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh.

Cùng với đó, nhận thức về phát triển nhanh (rút ngắn) quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chưa đầy đủ. Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.

Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp; vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước… nhằm nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Các đột phá chiến lược chưa có bứt phá. Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu; khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển. 

Đồng quan điểm, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết năm 2020, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt 16,7%. Trong đó, tỷ  trọng các ngành công nghiệp công nghệ trung bình và cao chiếm 40% về giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành chế biến, chế tạo.

Doanh nghiệp Việt đang “đứng ngoài” cuộc cách mạng công nghiệp

Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh, qua 35 năm đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Việt Nam đã có bước chuyển đổi sâu sắc.

Theo khảo sát của Bộ Công Thương về mức độ sẵn sàng của các ngành công nghiệp Việt Nam trước Cách mạng công nghiệp 4.0 với thang điểm 5, cho thấy hầu hết các ngành đều có điểm số dưới 2,5 ở tất cả các khía cạnh.

ông Hải nói.

Thực hiện trong bối cảnh mới

Trong khi đó, Việt Nam đã xác định mục tiêu đến năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện được các mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ then chốt được Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định là “đẩy mạnh CNH, HĐH trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh, thực tiễn 35 năm qua tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn về CNH, HĐH cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn, đạt được các mục tiêu đề ra trong Văn kiện Đại hội XIII.

Doanh nghiệp Việt đang “đứng ngoài” cuộc cách mạng công nghiệp

Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải nhấn mạnh, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ngoài cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Theo đó, triết lý phát triển và mô hình, chính sách CNH, HĐH cần được xác định rõ để phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển mới khi bối cảnh và điều kiện trong nước và quốc tế cho thực hiện CNH, HĐH trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã khác so với những giai đoạn trước.

Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi căn bản tư duy về CNH, HĐH. Công nghệ sản xuất kỹ thuật số tiên tiến có thể thúc đẩy phát triển công nghiệp bao trùm và bền vững, cũng như đạt được những mục tiêu trong phát triển bền vững.

Đồng thời, cuộc CMCN lần thứ tư cũng đã tạo những thay đổi lớn về tư duy và giải pháp phát triển những ngành, lĩnh vực khác thuộc nội hàm của CNH, HĐH như về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng; về phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học và công nghệ; về phát triển dịch vụ dựa trên nền tảng ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là các dịch vụ có giá trị gia tăng cao; về phát triển đô thị và kinh tế đô thị; vấn đề liên kết vùng trong phát triển kinh tế…

Bên cạnh đó, bối cảnh tác động đến công nghiệp hóa nước ta trong giai đoạn mới còn chịu tác động của cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vẫn hợp tác, thoả hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng, cùng với bối cảnh hậu Covid-19, nhiều nước đã và đang điều chỉnh các chiến lược theo hướng tăng cường tự chủ kinh tế. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Điều này đã được nhận diện trong báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10  năm 2021-2030.

Như vậy, vấn đề đặt ra là Việt Nam cần nhận diện được bối cảnh và các xu thế lớn của CNH, HĐH trong thời đại ngày nay để có những tư duy và tiếp cận mới về CNH, HĐH. Có nhiều vấn đề lớn đặt ra như: việc phục hồi kinh tế sau đại dịch; yêu cầu bảo đảm độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế; về xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh; cách thức để Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực cũng phải thay đổi khi Việt Nam tham gia các FTA cũng như việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam nếu chúng ta quyết tâm đổi mới tư duy và xây dựng được chiến lược phát triển rút ngắn phù hợp.

Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời có tổng lượng phát thải khí nhà kính hàng năm lớn (hiện đứng thứ 21 trên thế giới và đứng thứ 2 trong ASEAN). Từ đó đặt ra yêu cầu và đòi hỏi trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước phải gắn với tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu, thể hiện quyết tâm và cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 vừa qua.

TS Nguyễn Đức Hiển nhấn mạnh.

Doanh nghiệp Việt đang “đứng ngoài” cuộc cách mạng công nghiệp

Cũng đặc biệt nhắc tới bối cảnh trong nước, Thứ trưởng Bộ Công thương chỉ ra Việt Nam đang đứng trước xu hướng thay đổi về cơ cấu dân số với quy mô thị trường 100 triệu dân, cơ cấu dân số vàng duy trì trong khoảng 20 năm tới và tầng lớp trung lưu đang ngày càng tăng.

Tuy nhiên, chi phí lao động và đất đai tại Việt Nam ngày càng kém cạnh tranh so với các nước mới nổi. Hơn nữa, sức cạnh tranh trong nước tiếp tục gia tăng do độ mở nền kinh tế ngày càng lớn.

ông Hải nói.

Ông Hải đề xuất một số định hướng chiến lược, cụ thể là hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật làm nền tảng, tạo động lực phát triển công nghiệp và thay đổi tư duy, hướng tiếp cận về công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bên cạnh đó là giải pháp phân bổ, sử dụng hợp lý nguồn lực để phát triển công nghiệp bền vững, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, trên nguyên tắc dựa trên lợi thế của đất nước, hình thành chuỗi cung ứng trong nước. Đặc biệt là nâng cao năng lực và tính chủ động của các địa phương, tăng cường liên kết giữa các địa phương, các vùng cùng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và mức độ thông minh.

Ngoài ra, ông Hải chú trọng về hai yếu tố hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước và tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp nội địa với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như thị trường toàn cầu, cũng cần đưa vào định hướng chiến lược trong giai đoạn 2021-2025/2030.