Tháng 01/2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản 5,14 tỷ USD, tăng 79,2%. Đáng lưu ý, giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 23%, tăng 106,9%.
Theo Bộ NN&PTNT, tiêu thụ nông lâm thủy sản tháng đầu năm 2024 đạt được nhiều kết quả tích cực.
Trung Quốc là thị trường lớn nhất
Tháng 01/2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản 5,14 tỷ USD, tăng 79,2% so với cùng kỳ năm trước, nhập khẩu 3,72 tỷ USD, xuất siêu 1,43 tỷ USD tăng hơn 4,6 lần so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng cao, đạt 5,14 tỷ USD nhờ đóng góp của tất cả các nhóm hàng đều tăng. Trong đó, lâm sản 1,49 tỷ USD, tăng 72,5%, thủy sản 730 triệu USD, tăng 60,8%, nông sản 2,71 tỷ USD, tăng 93,8%, chăn nuôi 36 triệu USD, tăng 3,5%, đầu vào sản xuất 177 triệu USD, tăng 49,2%.
Về thị trường, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản tới các thị trường đều tăng. Trong đó, xuất khẩu sang khu vực Châu Mỹ 1,18 tỷ USD, tăng 93,6%, Châu Phi 104 triệu USD, tăng 185,4%, Châu Á 2,52 tỷ USD, tăng 86,3%, Châu Âu 532 triệu USD, tăng 38,2% và Châu Đại Dương 78 triệu USD, tăng 100,9%.
Đáng lưu ý, giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 23%, tăng 106,9%, Hoa Kỳ chiếm 20,8%, tăng 95,9% và Nhật Bản chiếm 7,4%, tăng 47,5%.
Như vậy, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất của xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản Việt Nam. Trước đó, ngay từ những ngày đầu năm 2024, đoàn công tác của Bộ NN&PTNT đã sang Trung Quốc đàm phán và mang nhiều tin vui về cho ngành nông nghiệp.
Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết, Việt Nam và Trung Quốc đang khẩn trương hoàn tất rà soát pháp lý để ký 3 nghị định thư về xuất khẩu thủy sản khai thác tự nhiên, xuất khẩu cá sấu nuôi và xuất khẩu khỉ nuôi từ Việt Nam sang Trung Quốc.
Hai bên còn thống nhất nhiều nội dung hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, thống nhất hợp tác về khoa học – công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp xanh, nông nghiệp giảm phát thải và nông nghiệp hữu cơ.
Bên cạnh đó, Cục Bảo vệ thực vật đang phối hợp với Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) gấp rút hoàn thiện hồ sơ mở cửa thị trường đối với các sản phẩm: trái cây có múi (bưởi, cam, quýt…), dừa, sầu riêng cấp đông, ớt, dược liệu.
Các mặt hàng khác như dược liệu đông y có nguồn gốc thực vật, thịt bò, thịt heo, sản phẩm từ gia súc, gia cầm cũng được Trung Quốc tạo điều kiện nhập khẩu.
Theo tính toán của doanh nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp trên được được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc sẽ giúp mang về hàng tỷ USD mỗi năm.
Đặc biệt, Trung Quốc tiếp tục là thị trường tiềm năng và còn nhiều cơ hội rộng mở cho nông sản Việt tăng thị phần và giá trị xuất khẩu. Với lợi thế gần về địa lý, giao thương thuận lợi, am hiểu thị hiếu tiêu dùng, nhiều nhóm hàng nông sản nước ta có thể ghi điểm tại thị trường tỷ dân này.
Tuy nhiên, thách thức với các doanh nghiệp trong nước là thị trường này ngày càng khó tính, yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nông sản nhập khẩu từ Việt Nam.
Đảm bảo nguồn cung nội địa
Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu tháng 1 đạt 3,72 tỷ USD, tăng khá cao 45,1% do các nhóm hàng nhập khẩu đều tang. Trong đó, nông sản 2,2 tỷ USD, tăng 41,1%, sản phẩm chăn nuôi 300 triệu USD, tăng 46,8%, thuỷ sản 250 triệu USD, tăng 33,9%, lâm sản 253 triệu USD, tăng 100,7%, đầu vào sản xuất 701 triệu USD, tăng 47,3% ,muối 4,3 triệu USD, tăng 39,8%.
Giá trị nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản từ các thị trường đều tăng. Trong đó, từ châu Mỹ tăng 22,2%, đạt 849 triệu USD, châu Phi tăng 49,6%, đạt 164 triệu USD, châu Á tăng 56,4%, đạt 1,05 tỷ USD, châu Âu tăng 54%, đạt 163 triệu USD và châu Đại Dương tăng 37,1%, đạt 256 triệu USD.
Thị trường trong nước, trong tháng 1, giá hầu hết các mặt hàng có xu hướng tăng so với thời điểm tháng 11/2023 do nhu cầu cao dịp cận Tết Nguyên đán, nhưng tương đối ổn định và tăng giảm đan xen so với thời điểm tháng 12/2023. Ngoại trừ 02 mặt hàng tiếp tục tăng cao Chè búp, chè móc câu (19-30%), Ớt chuông (33%); một số mặt hàng tăng nhẹ như hạt tiêu đen (5%), cà phê (4-9%), gạo thường (trên 6%), xoài cát chu (8%), thanh long ruột đỏ (3,4%), thanh long ruột trắng (4,5%), tôm nguyên liệu (4%), cá nguyên liệu (5-6,7%); riêng mặt hàng chăn nuôi có xu hướng giảm từ những tháng cuối năm 2023 cho đến nay như lợn hơi (10,5%), bò hơi (2,5%), gà lông màu (2,3%), gà công nghiệp (6,8%).
Bộ NN&PTNT nhận định, nhìn chung, nguồn cung hàng nông sản dồi dào, bảo đảm phục vụ tiêu dùng dịp Tết nguyên đán, giá cả không biến động nhiều thậm chí một số mặt hàng giảm do người dân thay đổi thói quen tiêu dùng, nhu cầu năm nay có tăng hơn so với dịp Tết Nguyên đán năm 2023.
Nguồn: diendandoanhnghiep.vn