Một trong các giải pháp trọng tâm được đưa ra tại Chiến lược là xây dựng các doanh nghiệp “hạt nhân”, doanh nghiệp “đầu tàu” đóng vai trò dẫn dắt tạo ra đột phá phát triển logistics Việt Nam.
>>>Các hiệp hội, doanh nghiệp logistics phải là trung tâm của các giải pháp phát triển ngành
Chia sẻ với DĐDN, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics là nền tảng triển khai các cải cách thể chế tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp cảm nhận được sự quan tâm, sự ưu tiên, giúp tự tin, vững bước hoạt động kinh doanh trong bối cảnh khó khăn của thế giới.
Dự thảo “Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” đang được Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan xây dựng, lấy ý kiến rộng rãi.
– Hiện nay, một số chỉ tiêu chiến lược đưa ra còn khá khiêm tốn ví dụ như về chỉ số LPI, ông bình luận gì về ý kiến này?
Chỉ tiêu LPI là chỉ tiêu quan trọng để chúng ta đánh giá được mình đang ở đâu và so sánh được với các quốc gia khác. Năm 2018, chúng ta cũng đã xếp hạng thứ 39. Trước đó, tại Quyết định số 200/QĐ-TTg đưa ra mục tiêu xếp hạng LPI từ 50 trở lên. Đến năm 2023, chúng ta đã xếp hạng thứ 43. Như vậy, chúng ta cũng đã lùi xuống 4 bậc. Dự thảo hiện nay đưa ra xếp hạng LPI đạt thứ 45 theo một dự báo khá thận trọng vì chúng ta cũng nhìn thấy tất cả các quốc gia đều có sự quan tâm lớn và sự tiến bộ của các quốc gia khác thì chúng ta cũng cần phải ghi nhận.
Hiện chúng ta đang tiếp cận 1 cách thận trọng nên đã đề ra con số 45 và cũng có thể Ban soạn thảo sẽ cân nhắc đưa ra mức phấn đấu với con số 40 có được hay không? Việc này chúng ta phải đưa ra sự so sánh con số tương quan giữa Việt Nam với các quốc gia khác.
– Nói như vậy có mâu thuẫn với chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng đạt 15-20% năm 2030 hay không? Bởi nhiều ý kiến cho rằng có thể giai đoạn 5 năm trước đây chúng ta đạt được tốc độ này, thậm chí 20%, nhưng giai đoạn tới với sự cạnh tranh gay gắt chúng ta sẽ khó đạt tốc độ cao như thế nữa, thưa ông?
Hiện nay, chúng ta đặt chỉ tiêu đến năm 2030 vẫn là mục tiêu tương đối cao, mức 15-20%. Chỉ có giai đoạn tầm nhìn đến 2050 khi ngành logostics đã có sự phát triển tương đối ổn định rồi thì tốc độ tăng trường sẽ có thể chậm lại nên chiến lược đưa ra dự kiến mức 10-12%.
– Nhiều ý kiến cho rằng, cần phải hoàn thiện hơn nữa về các giải pháp thể chế thúc đẩy cho phát triển, ông bình luận gì về ý kiến này?
Chiến lược không phải là văn bản quy phạm pháp luật, không quy định cụ thể hành vi của xã hội nhưng đưa ra những việc phải làm, trong đó, có những việc cụ thể như sửa đổi khái niệm, định nghĩa logistics trong Luật thương mại 2005, các nghị định liên quan như tại Nghị quyết số 163/NQ-CP hoặc những quy định liên quan đến các lĩnh vực chuyên ngành như điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải, hoặc trong lĩnh vực kho bãi, hoặc những quy định liên quan đến thủ tục, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến hải quan. Đây đều là những vấn đề về thể chế mà trong thời gian vừa qua các doanh nghiệp cũng đã phản ánh vấn đề này khá là nhiều.
Chiến lược chỉ đặt ra những lĩnh vực mà chúng ta cần phải có sự sửa đổi, còn sửa đổi này cởi mở được đến đâu, thậm chí, chặt chẽ được đến đâu sẽ phụ thuộc vào quá trình sau này các cơ quan chủ trì xây dựng các thể chế này sẽ đưa ra để thực hiện.
>>>Dự thảo Chiến lược phát triển Logistics Việt Nam: Cụ thể hơn ưu đãi cho doanh nghiệp
>>>Dự thảo Chiến lược phát triển Logistics Việt Nam: “Kim chỉ nam” cho doanh nghiệp
– Nhiều ý kiến cũng cho rằng, cần phát triển các doanh nghiệp “đầu đàn” để dẫn dắt các doanh nghiệp của ngành, điều này được thể hiện như thế nào trong Chiến lược, thưa ông?
Việc này đã được thể hiện tại Quyết định số 200/QĐ-TTg được ban hành từ năm 2017 đó là xây dựng các tập đoàn mạnh về logistics và chúng tôi vẫn sẽ kế thừa các quan điểm này trong chiến lược sắp tới.
Cụ thể, ở nhóm giải pháp thứ 3 về phát triển thị trường và nâng cao năng lực doanh nghiệp vẫn có một mục đó là xây dựng các doanh nghiệp “hạt nhân”, doanh nghiệp “đầu tàu” đóng vai trò dẫn dắt, định hướng và giúp tạo ra những đột phá trong lĩnh vực logistics của Việt Nam.
– Về các chính sách ưu đãi của doanh nghiệp, nhất là các ưu đãi vào các lĩnh vực có tính chất định hướng như logistics xanh, hoặc giảm phát thải carbon sẽ được thể hiện như thế nào trong định hướng chiến lược, thưa ông?
Đây cũng là mục tiêu mà chúng tôi sẽ đặt ra. Nhưng những ưu đãi ở mức cụ thể như thế nào thì sẽ được thể hiện ở các văn bản sau này. Tuy nhiên, Chiến lược đặt ra các yêu cầu, những doanh nghiệp có quan tâm đến logistics xanh, giảm phát thải thì chúng ta cần có những chính sách cụ thể hay các văn bản cụ thể để làm sao tạo ra sự khác biệt, dành ưu đãi cho những doanh nghiệp như vậy.
– Nếu nói Chiến lược là “kim chỉ nam” cho doanh nghiệp, theo ông, điều mà Chiến lược mang lại lớn nhất cho các doanh nghiệp là gì, nếu như các ưu đãi không được cụ thể?
Ở đây, với Chiến lược này, các doanh nghiệp có thể thấy được sự quan tâm, sự ưu tiên của Chính phủ dành cho lĩnh vực dịch vụ logistics. Đặc biệt trong bối cảnh cách đây 10 năm, các sự quan tâm như vậy cũng như chính sách là chưa có.
Cùng với đó, Chiến lược sẽ là nền tảng để chúng ta triển khai các chính sách cụ thể hơn nữa, bao gồm kể cả các chiến lược thành phần, kể cả các văn bản quy phạm pháp luật hoặc các quy hoạch qua đó tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp.
Đây là văn bản mang tính chất nền tảng để giúp cho các doanh nghiệp có thêm tự tin, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nhất là trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh hiện nay.
– Các doanh nghiệp, chuyên gia cũng quan tâm đến vai trò điều tiết của Bộ Công Thương trong quy hoạch hạ tầng logistics các địa phương, tránh tình trạng các địa phương cùng nhau phát triển dẫn đến lãng phí nguồn lực, Bộ Công Thương phát huy việc này như thế nào?
Đây là vai trò của các Bộ, ngành, trung ương nói chung trong đó có cả Bộ Công Thương. Ở đây chúng ta chỉ nói với một trường hợp ví dụ như là phát triển cảng biển, có những khu vực số lượng cảng biển quá dày, quá sát nhau thì việc điều tiết như vậy phải thể hiện ở ngay trong các quy hoạch ngành liên quan mà cụ thể ở đây là quy hoạch cảng biển. Việc này, các Bộ ngành chủ trì, cụ thể là Bộ Giao thông Vận tải điều tiết các lĩnh vực như vậy.
Còn Bộ Công Thương trực tiếp chủ trì về vấn đề phát triển Trung tâm logistics. Tuy nhiên, hiện nay, Quyết định 1012/QĐ-TTg đã hết hiệu lực, trong khi theo Luật Quy hoạch mới thì chúng ta không có quy hoạch ngành về Trung tâm logistics mà đưa vào tích hợp trong Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Đây cũng sẽ là điểm chúng tôi sẽ phải lưu ý, góp ý khi các địa phương tham khảo ý kiến của Bộ Công Thương về dự thảo phát triển kinh tế xã hội của mình.
Chiến lược không phải là quy hoạch nên không đưa vào các quy hoạch địa phương. Nhưng Chiến lược có thể chỉ ra một số khu vực trọng điểm, ưu tiên cho phát triển lĩnh vực logistics như thế nào, ví dụ như các vùng kinh tế đã định hướng phát triển logistics phục vụ cho nông sản, hoặc phát triển logistics thương mại điện tử, logistics cho hàng hóa biên giới…
– Cần có luật về logistics, quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Logistics là một lĩnh vực dịch vụ tổng hợp, tôi cho rằng không cần có một luật riêng về hoạt động logistics vì những nội dung chúng ta đang điều chỉnh (vai trò của pháp luật điều chỉnh hành vi của xã hội đang thể hiện ở pháp luật chuyên ngành) ví dụ như luật về hàng không, về đường sắt, về đường bộ, luật bưu chính, luật hải quan. Do vậy, hệ thống pháp luật chuyên ngành cấu thành lên dịch vụ logistics hiện nay đã tương đối đầy đủ và nếu cần thì chúng ta sẽ có những sự sửa đổi bổ sung cập nhật trong hệ thống pháp luật như vậy.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: diendandoanhnghiep.vn