Phát biểu tại Diễn đàn Nhịp cầu phát triển Việt Nam 2024, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển cho biết, các nghị quyết, chủ trương chung về phát triển nhanh, bền vững, về phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2021- 2030 thông qua tại Đại hội XIII cũng như đề cập rất rõ trong các nghị quyết như Nghị quyết 24 của Ban chấp hành Trung ương khóa 11; Nghị quyết 29 của Ban chấp hành Trung ương khóa 13 và một loạt lĩnh vực chuyên ngành đều có nghị quyết về mặt dài hạn đến năm 2030, tầm nhìn 2045 của Đảng như Nghị quyết 55 về vấn đề năng lượng; Nghị quyết 52 về chủ động tham gia cuộc cách mạng 4.0, Nghị quyết 06 về đô thị trong đó liên quan đến hạ tầng xanh, vật liệu xanh; hay Nghị quyết 19 về nông nghiệp, nông thôn.

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương: Ba trụ cột cho chuyển đổi xanh

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển khẳng định Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu về chuyển đổi xanh. 

Đồng thời, Chính phủ cũng ban hành các chiến lược như Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanhh; Chiến lược Biến đổi khí hậu; Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh; Chương trình hành động chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí methane; Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững; triển khai hàng loạt các kế hoạch, đặc biệt trong đó là Quy hoạch điện 8 về năng lượng.

“Có thể khẳng định, về mặt chủ trương, đường lối và các chiến lược chính sách rất đầy đủ. Tuy nhiên, vấn đề là cần đưa các chủ trương vào cuộc sống và triển khai đồng bộ các chiến lược, kế hoạch”, ông Nguyễn Đức Hiển nhấn mạnh.

Theo Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, thực tế, không thể phủ nhận, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu về chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh.

Điển hình như chuyển dịch năng lượng tích cực, trong đó năng lượng tái tạo chiếm khoảng 27,1% trong tổng công suất và 13,7% về sản lượng trong hệ thống điện toàn quốc. So với mục tiêu đề ra đến năm 2030 đạt khoảng 15-20% và năm 2045 đạt khoảng 25-30% trong Nghị quyết số 55-NQ/TW, công suất các nguồn năng lượng tái tạo có thể đạt được.

Tỷ trọng kinh tế số trong GDP Việt Nam đến cuối năm 2023 đạt 16,5%. Tín dụng xanh tăng trưởng 20%/năm từ năm 2017 đến nay và chiếm gần 4,5% dư nợ của nền kinh tế năm 2023. Giai đoạn 2019-2023, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh.

Năm 2023 Việt Nam bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon thông qua Ngân hàng Thế giới (WB) thu về 51,5 triệu USD; năm 2022, cả nước có khoảng 240.000 hecta canh tác hữu cơ (trong khi năm 2016 chỉ là 77.000 ha); có 59/63 tỉnh, thành phố trên cả nước triển khai nông nghiệp hữu cơ…

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương khẳng định, đây là những con số minh chứng trong các ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, để đạt được yêu cầu chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế xanh còn nhiều thách thức.

“Để chuyển đổi xanh phải nhất quán quan điểm đây là sự nghiệp chung của toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan tổ chức và phải thúc đẩy, tập trung 3 trụ cột là thể chế, khoa học công nghệ, nguồn lực, nhất là tài chính”, ông Hiển nhấn mạnh thêm.

Theo đó, ông Nguyễn Đức Hiển đưa ra 6 vấn đề lớn cần tập trung trong thời gian tới. Cụ thể, Thứ nhất, tiếp tục cụ thể hóa chủ trương, đường lối chung, chiến lược đã có trong lĩnh vực kinh tế xã hội thành các chương trình hành động cụ thể để triển khai đúng, kịp thời, theo lộ trình về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, phát triển nhanh, bền vững.

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương: Ba trụ cột cho chuyển đổi xanh

Diễn đàn Nhịp cầu phát triển Việt Nam 2024 có chủ đề “Việt Nam hướng tới nền kinh tế xanh, bền vững: Từ chiến lược, chính sách của Chính phủ tới các sáng kiến, giải pháp của địa phương và doanh nghiệp”.

Thứ hai, rà soát, đánh giá thực chất kết quả triển khai 18 chủ đề, 57 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 134 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể nêu trong Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030.

Trong đó, cần đặc biệt lưu ý về kết quả triển khai các nhiệm vụ về xây dựng và hoàn thiện thể chế (bao gồm: 2 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 9 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể); khoa học, công nghệ (2 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 6 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể); và các ngành tạo phát thải khí nhà kính lớn như: Năng lượng (bao gồm: 5 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 11 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể); Công nghiệp (bao gồm: 4 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 4 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể); Giao thông vận tải và dịch vụ logistics (bao gồm: 6 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 18 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể); Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (bao gồm: 5 nhóm nhiệm vụ, hoạt động và 11 nhiệm vụ, hoạt động cụ thể).

Thứ ba, xác định khoa học và công nghệ và yếu tố nền tảng, then chốt để đạt được các mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong tăng trưởng xanh như: xanh hóa các ngành kinh tế; xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xanh hóa quá trình chuyển đổi.

Thứ tư, định hình tư duy và chiến lược mới về thu hút FDI trên cơ sở sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 50 của Bộ Chính trị.

Thứ năm, cần đổi mới tư duy và cách tiếp cận trong hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc chuyển đổi xanh thông qua việc xây dựng những tiêu chí, quy định và các chương trình hỗ trợ cụ thể đối với doanh nghiệp.

“Trong đó, đặc biệt quan tâm đến khả năng tiếp cận được tài chính xanh để chuyển đổi sản xuất, tiếp cận được thị trường và phát triển bền vững vì đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến thành công của chuyển đổi xanh của doanh nghiệp”, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương nhấn mạnh.

Thứ sáu, có cơ chế, chính sách thúc đẩy tài chính xanh, tín dụng xanh khi Ngân hàng Thế giới ước tính Việt Nam cần tới 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022 – 2040 (hoặc khoảng 6,8% GDP/năm) để xây dựng khả năng chống chịu và khử carbon, hướng giảm phát thải ròng bằng 0.

Còn theo tính toán của Bộ Khoa học và Đầu tư, cần huy động thêm 144 tỷ USD trong giai đoạn 2021 – 2050, tương ứng 2,2% của GDP, nhằm hiện thực hóa cam kết đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050.