Có 8 trường hợp bị thu hồi đất, trong đó có nguyên nhân do chủ đầu tư được giao đất để làm dự án mà không thực hiện đúng thời hạn, không thực hiện nghĩa vụ tài chính…
Căn cứ theo điều 81 luật Đất đai, các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai gồm:
Thứ nhất, sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm.
Thứ hai, người sử dụng đất hủy hoại đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại đất mà tiếp tục vi phạm.
Thứ ba, đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền.
Thứ tư, đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho từ người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất mà người được giao đất, cho thuê đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của luật này.
Thứ năm, đất được Nhà nước giao quản lý mà để bị lấn đất, chiếm đất.
Thứ sáu, người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
Thứ bảy, đất trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản không được sử dụng trong thời gian 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời gian 18 tháng liên tục, đất trồng rừng không được sử dụng trong thời gian 24 tháng liên tục và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính (theo khoản 7 điều 81 luật Đất đai).
Thứ tám, đất được Nhà nước giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư, mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa, hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư.
Trường hợp không đưa đất vào sử dụng, hoặc chậm tiến độ sử dụng đất so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng không quá 24 tháng và phải nộp bổ sung cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian được gia hạn. Hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất và chi phí đầu tư vào đất còn lại…
Khi nào không nộp tiền sử dụng đất mới bị thu hồi đất?
Theo điều 30 Nghị định 102 năm 2024, người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước (khoản 6 Điều 81 luật Đất đai) là không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, mà đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định về quản lý thuế, nhưng không chấp hành, thì cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị thu hồi đất.
Cơ quan thuế có trách nhiệm gửi thông báo kèm theo tài liệu có liên quan đến cơ quan có chức năng quản lý đất đai, để làm thủ tục trình cấp có thẩm quyền thu hồi đất.
Điều kiện thu hồi đất
Theo điều 32 Nghị định 102 năm 2024, điều kiện thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai quy định tại điều 81 luật Đất đai:
Trường hợp vi phạm phải xử phạt hành chính, thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt về kiến nghị thu hồi đất do người sử dụng đất vẫn tiếp tục vi phạm, cơ quan có chức năng quản lý đất đai trình cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại điều 83 luật Đất đai.
Đối với các hành vi vi phạm không phải xử phạt, thì việc thu hồi đất được tiến hành sau khi có kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm tra có thẩm quyền về trường hợp phải thu hồi đất.
Người bị thu hồi đất được hoàn trả như thế nào?
Trường hợp thu hồi đất do người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, thì số tiền sử dụng đất thu được từ bán đấu giá quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (nếu có) sau khi trừ đi các chi phí cưỡng chế, tổ chức đấu giá, được nộp ngân sách nhà nước để thanh toán nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất. Số tiền còn lại được hoàn trả cho người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thu hồi.
Trường hợp thu hồi đất theo quy định tại khoản 7 điều 81 luật Đất đai, thì trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày có quyết định thu hồi đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thu hồi được bán tài sản theo quy định.
Khi hết thời hạn nêu trên, người sử dụng đất thu hồi không thực hiện được việc bán tài sản của mình gắn liền với đất, thì Nhà nước không bồi thường đối với tài sản gắn liền với đất. Chủ sở hữu tài sản phải tự tháo dỡ tài sản trả lại mặt bằng cho Nhà nước theo thời hạn ghi trong quyết định thu hồi đất. Nếu không thực hiện thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thu hồi đất theo quy định.
Trường hợp nhà đầu tư mua lại tài sản gắn liền với đất của người có đất thu hồi thì được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật.
Nguồn: thanhnien.vn