Ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam có một ngôi làng đặc biệt. Sau này gọi là xã nhưng với tôi, gọi là làng nghe thân thiết hơn. Đó là làng cát trắng Bình Dương, trong và sau chiến tranh chống Mỹ đã 3 lần được phong tặng danh hiệu anh hùng.
Chuyến đi thực tế trải dài và rộng ở nhiều huyện trong tỉnh, nhưng vẫn có những điểm nhấn mà các nhà văn nhất thiết phải đến để thấy nhân dân mình đã sống, chiến đấu, hy sinh và quyết sống còn như thế nào.
Làng Bình Dương của huyện Thăng Bình chính là một trong mấy điểm nhấn ấy mà chúng tôi đã được đến. Chuyến đi thực tế do nhà văn Nguyên Ngọc lúc ấy là Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam đứng ra tổ chức, được sự ủng hộ hết mình của lãnh đạo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Nhóm nhà văn chúng tôi gồm nhà thơ Xuân Diệu, nhà văn Đoàn Giỏi, nhà thơ Anh Thơ, nhà văn Thái Bá Lợi, nhà phê bình – lý luận Từ Sơn và nhà văn Trung Trung Đỉnh đã được về Bình Dương trong mùa hè nắng nung cát cháy đó.
Bao nhiêu năm đã qua rồi, mà ký ức về Bình Dương vẫn còn khá nguyên vẹn trong tôi. Đó là một ký ức vừa nặng trĩu, vừa dữ dội, lại vừa chói sáng, cứ như chúng tôi đang đi về một vùng đất hoàn toàn khác lạ, dù vùng cát trắng Bình Dương vẫn thân gần với những người đã từng qua chiến tranh, từng đi kháng chiến như chúng tôi.
Nhớ những buổi trưa hè cả nhóm chúng tôi đi bộ từ thôn này sang thôn khác trong làng, tìm đến các nhà dân, các gia đình có người từng đi du kích để thăm và hỏi chuyện. Những chuyện hồi chiến tranh do người Bình Dương kể một cách thật thà khiến chúng tôi như choáng váng. Vì ít ai dám nghĩ một làng vùng cát trắng nghèo khổ lại phải chịu đựng sự hủy diệt kinh khủng đến như thế.
Điều lạ lùng nhất, là trong đau thương, người Bình Dương vẫn đứng vững, du kích vẫn chiến đấu, những người mẹ người chị vẫn bảo bọc và tiếp sức cho chồng con mình. Rồi những hy sinh vẫn ập đến hàng ngày.
Tôi đã từng, sau chiến tranh, vào tháng 3.1976, tới vùng quê Sơn Mỹ của Quảng Ngãi, ở hằng tháng với bà con mới từ các vùng ấp chiến lược hay lẩn lút trong những “vùng oanh kích tự do” trở về. Bao nhiêu là khổ cực, vất vả. Ký ức chiến tranh, ký ức về cuộc thảm sát 504 người dân Sơn Mỹ tháng 3 năm 1968 cứ trở về bất cứ lúc nào.
Trong trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ, tôi viết sau đó một năm, có đoạn về những người du kích Sơn Mỹ, mà tôi thấy trùng hợp với những người du kích ở Bình Dương:
trải qua rét buốt lửa nồng
gia tài còn vẹn tấm lòng ấy thôi
những người mọc thẳng giữa đời
như rừng dương chắn ngang trời cát bay
những người bền tựa rễ cây
luồn trong đất đá cánh tay trụi trần
họ dò tới những mạch ngầm bí mật
đã nuôi được xương rồng trên trảng cát
với xương rồng, họ tìm cách nở hoa
Vâng, sau tất cả những hy sinh mất mát đau thương, thì cốt lõi vẫn là “với xương rồng, họ tìm cách nở hoa“. Phải nở hoa bằng bất cứ giá nào. Họ đã đi tới ngày chiến thắng, ngày Hòa bình – Thống nhất bằng chính lời thề ấy.
Bây giờ, sau tất cả mọi điều, thì dự án “Vườn Mẹ” mà anh Phan Đức Nhạn, một người con Bình Dương, một người có cha là Chủ tịch huyện Thăng Bình thời kháng chiến chống Pháp, có mẹ là liệt sĩ và là bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có 4 người hy sinh trong chiến tranh, đã quyết theo đuổi dự án này từ nhiều năm nay.
Anh Phan Đức Nhạn thuyết minh cho tôi nghe, rằng thì nơi ấy, nơi đã hai lần được phong anh hùng trong chiến tranh, một lần sau chiến tranh, sẽ có bao nhiêu trái quả ngọt lành, bao nhiêu rau xanh mướt mát từ bàn tay mẹ, mà mỗi luống hành, cọng rau, quả bí, trái bầu…sẽ mang nặng lòng biết ơn với Mẹ, được chưng cất từ lòng Mẹ, cùng bao vất vả lo toan của mỗi người dân Bình Dương hôm nay.
“Vườn Mẹ”, còn một ý tưởng nào yêu thương hơn, còn lòng biết ơn nào sâu nặng hơn khi những đứa con hợp sức vun xới ngay trên mảnh đất Bình Dương đau thương và anh hùng này một khu vườn. Không phải là “vườn thượng uyển”, mà là “Vườn Mẹ” với rau quả, với xương rồng nở hoa, với những bờ dương ngăn chắn cát, với những hồ chứa nước cho mùa khô, với tất cả những gì mà mẹ chúng ta, những bà mẹ anh hùng đã dày công vun xới ngay từ những tháng ngày khốc liệt nhất trong chiến tranh.
Đó như một bảo tàng của lòng biết ơn, lại như một quyển sách xanh mà mọi người có thể lật giở từng trang để không bao giờ lãng quên quá khứ, không bao giờ nguôi nhớ những người mẹ đã hy sinh tất cả, đã nếm trải quá nhiều đau thương mất mát.
Như những cây xương rồng trên cát, người Bình Dương đã quyết “nở hoa”, đã quyết sống. Đó là một ý chí sống mà không kẻ thù nào hiểu được, dập xóa được.
Và tôi tin, dự án “Vườn Mẹ” sẽ thành hiện thực trong một ngày không xa nữa. Ngày ấy, tất cả chúng ta sẽ cùng có mặt trên vùng cát cháy nay đã bật sáng những nụ chồi xanh tươi của cuộc sống, sẽ vươn cao lên những hàng dương của lòng biết ơn và ý chí quyết sống.
Phải quyết sống còn để có được hạnh phúc, đó là Bình Dương. Đó là Sơn Mỹ. Đó là Việt Nam. Có một bài thơ tôi viết tháng 3.1976 ở Sơn Mỹ, mà tôi muốn kính tặng cho Sơn Mỹ và Bình Dương, hai ngôi làng đau thương và anh hùng:
NGHĨA LÝ Ở TÚP LỀU TRỤ BÁM
Cây cần vọt múc nắng trưa
mát êm lòng giếng lá dừa nghiêng qua
bóng dừa năm ấy rất xa
tôi nghe trong cát bỗng nhòa tiếng ai!
…nền nhà lăn lóc vỏ chai
trống hoang cái gió búi gai xương rồng
ngó về đồng ráng mênh mông
ai ăn đọt ráng giữ lòng trước sau
những đời những lớp đất sâu
nào chua nào mặn biết đâu đáy cùng
mà lòng giếng cứ nước trong
khơi khơi cát trắng xương rồng đỏ hoa
con về cơn gió thoảng qua
ở bao nhiêu bão mái nhà mẹ đây
trước nhà vẫn mấy luống khoai
giếng trong múc hết lại đầy, con ơi
hồn nhiên mắt mẹ ngấn cười
túp lều chật gió khôn nguôi đêm ngày
cúi đầu khi bước vào đây
những người chưa sống một giây cúi đầu
áo mẹ rách tóc ngả màu
cho con nghĩa lý trời cao nắng dài
bữa thường ăn mắm ăn khoai
bàn chân lỳ cát, bờ vai chai đòn
mẹ phần con cả nước non
vào phên cửa hẹp mất còn những ai
giếng sâu thì nối dây dài
mẹ nối con với ngày mai đang thành
nghĩa từ vách đất mái tranh
đứng qua bom lửa biết mình thực hư
nghĩa từ một rá khoai khô
mẹ giành nuôi những cơn mơ suốt đời
những cơn mơ vốn ít lời
mẹ trao ngấn sáng giọt cười cho con
3.1976
Nguồn: thanhnien.vn