Là nơi an táng của ba vị vua triều Nguyễn: Dục Đức (cha), Thành Thái (con) và Duy Tân (cháu), Lăng Dục Đức (còn gọi là An Lăng, P.An Cựu, TP.Huế, Thừa Thiên-Huế) gắn với nhiều câu chuyện bi thảm.

Ký họa của Kim Hạnh – SV Trường ĐH Kiến trúc Đà Nẵng
Năm 1889, vua Thành Thái (1879 – 1954) lên ngôi đã cải táng cho cha, thấy hai bộ xương bèn lấp lại, xây nơi ấy thành lăng cho vua cha lấy tên là An Lăng. Sau này, khi vua Duy Tân (1900 – 1945) tử nạn máy bay và vua Thành Thái qua đời đều được mang về an táng và thờ tại đây.

Cổng vào có bình phong nhằm ngăn chặn “khí xấu” – ký họa của KTS Linh Hoàng
Theo Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế, An Lăng có hai khu: lăng (nơi chôn cất) và tẩm (nơi thờ tự) cách nhau khoảng 50 m. Khu lăng có kiến trúc đơn giản, khiêm tốn, không có Bi đình và tượng đá như các lăng đời trước. Cổng vào có bình phong (*). Ở trung tâm khu tẩm là điện Long Ân xây theo mẫu các ngôi điện nhà Nguyễn. Bên trong có ba án thờ bài vị của vua Dục Đức và vợ (ở giữa), vua Thành Thái và vua Duy Tân (hai bên).

Cổng vào khu mộ vua Dục Đức – ký họa của KTS Linh Hoàng

Một góc lăng mộ – ký họa của KTS Linh Hoàng

Ký họa của KTS Bùi Hoàng Bảo

Ký họa của KTS Trần Xuân Hồng

Tranh của KTS Phùng Thế Huy

Hoàng hôn trên An Lăng – tranh của KTS Phùng Thế Huy
Năm 1997, công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia. Năm 2018, di tích được phục hồi, tu bổ và mới mở cửa đón khách lại vào tháng 8 năm nay.
(*): là đặc trưng kiến trúc truyền thống Huế. Theo phong thủy, bình phong chính là “án”, “triều” nhằm bảo vệ cuộc đất, ngăn chặn “khí xấu”. Trong đời thường, bình phong còn để trang trí, ngăn ánh nhìn tò mò từ ngoài vào.
Nguồn: thanhnien.vn