Hình thành mạng lưới nông nghiệp sinh thái là cần thiết để phát triển các mô hình nông nghiệp sinh thái, gồm nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu…
Cụ thể, nông nghiệp là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn, chiếm khoảng 30% tổng lượng CO2. Bên cạnh đó, dịch bệnh mới nổi, như dịch tả lợn Châu Phi và sự thay đổi nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao về an toàn thực phẩm và môi trường cũng là một thách thức đáng quan ngại.
“Sự hình thành mạng lưới nông nghiệp sinh thái tại Việt Nam là cần thiết để phát triển các mô hình nông nghiệp sinh thái, bao gồm nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu và nông – lâm kết hợp”, PGS.TS Đào Thế Anh cho biết.
Theo ông Nguyễn Hoàng Phương, Giảng viên Trường đại học Tây Bắc, Cán bộ Dự án ASSET chia sẻ, có 13 nguyên tắc được thiết lập cho nông nghiệp sinh thái: tận dụng các nguồn tài nguyên sẵn có tại địa phương; cải thiện khả năng tự cung cấp của hệ thống nông nghiệp; phục hồi dinh dưỡng trong đất; đối xử công bằng với vật nuôi; duy trì và phục hồi đa dạng sinh học; cộng sinh, hội sinh và hợp sinh giữa các cây trồng; đa dạng hóa nguồn thu nhập từ nông nghiệp; sáng tao kiến thức mới dựa trên kinh nghiệm và thực tế sản xuất của nông dân; tôn trọng truyền thống ẩm thực và văn hóa bản địa; lợi nhuận phân chia phù hợp; hình thành các chuỗi liên kết, chuỗi giá trị; phát huy vai trò của người dân trong quản lý tài nguyên; phát triển có sự tham gia.
Theo ông Nguyễn Hoàng Phương, hiện có nhiều thực hành nông nghiệp sinh thái ở khu vực Đông Nam Á, gồm: nông nghiệp hữu cơ; nông lâm kết hợp, nông nghiệp bảo tồn; quản lý cây trồng tổng hợp, nông nghiệp tuần hoàn; nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên việc phát triển các mô hình nông nghiệp sinh thái không hề dễ dàng. TS. Nguyễn Quang Tân, đại diện của ICRAF Việt Nam, chia sẻ vốn đầu tư ban đầu cho nông nghiệp sinh thái đòi hỏi nguồn lực lớn, bên cạnh đó, năng lực của cán bộ địa phương trong việc hướng dẫn và theo dõi quá trình chuyển đổi vẫn còn hạn chế. Thị trường cho sản phẩm nông nghiệp sinh thái hiện nay chưa có sự phân biệt rõ ràng so với sản phẩm thông thường, khiến cho việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn.
Bên cạnh đó, thói quen canh tác lâu đời, trình độ của người dân trong áp dụng các kỹ thuật nông nghiệp sinh thái của người dân khiến họ ngần ngại thay đổi phương thức sản xuất.
Do đó, TS. Nguyễn Quang Tân đề xuất nông nghiệp sinh thái cần được phát triển mạnh, đặc biệt trên các sườn dốc.
“Việc thiết lập mô hình nông nghiệp sinh thái đòi hỏi đầu tư lớn, vì vậy cần hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho nông dân. Bắt đầu với những mô hình dễ áp dụng sẽ giúp người dân dễ dàng tiếp cận và mở rộng. Tôi đề nghị cần nâng cao học hỏi và trao đổi kinh nghiệm giữa nông dân và có lộ trình từng bước giảm sử dụng hóa chất để thay đổi nhận thức và hành động của người dân. Ngoài ra, khung chính sách cần có hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái, hỗ trợ thị trường và chuỗi giá trị cho sản phẩm sinh thái”, ông Tân nói.
Chia sẻ kinh nghiệm từ doanh nghiệp, bà Lê Thị Hoài Thương, Trưởng phòng Đối ngoại cấp cao, Nestlé Việt Nam chia sẻ về các mô hình tái sinh được xây dựng trên nguyên tắc và thực hành nông học: “Tại Việt Nam, nông nghiệp tái sinh được lồng ghép và thực hiện trong khuôn khổ Chương trình NESCAFÉ Plan. Dự án NESCAFÉ Plan đã gắn kết chặt chẽ với nông dân khu vực Tây Nguyên, nâng cao chất lượng hạt cà phê, cải thiện phương pháp canh tác và tái canh cây cà phê già cỗi.
Bên cạnh đó, chúng tôi duy trì các chương trình tập huấn cập nhật kiến thức mới nhất về phương pháp canh tác cà phê tiên tiến tại Việt Nam và trên thế giới. Trong đó, công ty ưu tiên quản lý nông nghiệp tái sinh bằng các công cụ số như FARMS và Nhật ký nông hộ số nhằm cung cấp kiến thức về khởi nghiệp cho nông dân. Nhờ đó, nông dân có thể chủ động trong quản lý kinh tế nông hộ trong khi đó Nestlé sẽ có số liệu nhanh chóng trong quản lý kinh tế vi mô”.
Nguồn: diendandoanhnghiep.vn