Từ đầu năm 2025 đến nay, sản lượng cà phê xuất khẩu giảm 23% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng giá trị tăng trên 36%, đạt kim ngạch trên 1,1 tỷ USD.
Ông Trịnh Đức Minh – Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Trao đổi với DĐDN, ông Trịnh Đức Minh – Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk cho biết: từ lợi thế về giá, cần đẩy mạnh phát triển cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản gắn với thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể để tăng nhận diện thương hiệu trên thị trường quốc tế. Chỉ bằng cách đó, cà phê Việt Nam vươn ra thế giới một cách bền vững.
– Cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản của Việt Nam được nhận diện ở phân khúc sản phẩm nào, thưa ông?
Mặc dù cà phê đang được giá trên thị trường quốc tế nhưng Đắk Lắk – thủ phủ cà phê chiếm 30% giá trị xuất khẩu cả nước – không mở rộng diện tích. Thay vào đó, tỉnh tập trung nâng cao chất lượng cà phê theo theo định hướng chiến lược phát triển ngành cà phê Việt Nam cũng như tỉnh Đắk Lắk.
Qua cuộc thi cà phê đặc sản Việt Nam với sự tham gia thẩm định của các chuyên gia hàng đầu thế giới, nhiều mẫu cà phê đạt tiêu chuẩn đặc sản đã được tôn vinh. Trong đó, tỉnh Đắk Lắk có nhiều tiềm năng và lợi thế phát triển thành công phân khúc cà phê robusta đặc sản lâu đời.
Thời gian qua, những lô hàng cà phê nhân robusta đặc sản của các doanh nghiệp trong tỉnh đã được giới thiệu, kết nối và xuất khẩu số lượng lớn. Cà phê đặc sản đã được xuất khẩu sang châu Âu – thị trường khó tính, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn cao, nhất là Quy định về chống phá rừng EUDR.
Cần đẩy mạnh phát triển cà phê chất lượng cao, cà phê đặc sản gắn với thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể để tăng nhận diện thương hiệu trên thị trường quốc tế. (Trải nghiệm mẫu cà phê đạt tiêu chuẩn đặc sản tại Lễ trao giải Cà phê đặc sản Việt Nam 2024. Ảnh: Minh Thuận)
– Các doanh nghiệp trong ngành cà phê đã chuyển động theo sự thay đổi trên như thế nào, thưa ông?
Cạnh tranh trên thị trường cà phê ngày càng gay gắt hơn. Nếu tiếp tục duy trì sản xuất và xuất khẩu thô theo phương thức cũ, các doanh nghiệp sẽ vất vả trong việc chiếm lĩnh thị trường khi các “ông lớn” đã đánh dấu thị phần ở thị trường trọng điểm. Muốn thâm nhập thị trường này, doanh nghiệp phải làm cà phê đặc sản, chất lượng cao. Theo đó, phải thay đổi cách thức sản xuất, thay đổi tư duy kinh tế nông nghiệp hướng đến phát triển bền vững, gia tăng giá trị kinh tế.
Tuy nhiên, sự thay đổi nào cũng gắn liền với một số thách thức. Với ngành cà phê, những thách thức trong chuyển đổi chất lượng sản xuất không dễ giải quyết trong ngày một ngày hai.
Nhìn ra các nước, Brazil đã mất gần 10 năm mới thực hiện phân khúc cà phê đặc sản. Chúng ta mới thực hiện chuyển đổi nên cần đủ thời gian mới tạo ra được khối lượng sản phẩm cà phê đặc sản đủ lớn. Hiện nay, một số doanh nghiệp cà phê đã nỗ lực thay thế, mở rộng diện tích cà phê đặc sản nhưng số lượng vẫn còn hạn chế.
– Ông vừa đề cập đến những thách thức trong chuyển đổi sản xuất, cụ thể là những rào cản nào?
Thách thức lớn nhất là chưa có nhiều trang trại đạt đến diện tích hàng trăm ha để đầu tư phương tiện, thiết bị cho sản xuất cà phê đặc sản. Chúng ta chưa có sản lượng đủ lớn, lên đến hàng chục tấn, tương đương khoảng một container hàng xuất thì chưa đủ để tự tin đi ra thế giới. Sản xuất nhỏ lẻ, không có số lượng lớn sẽ rất khó đồng nhất chất lượng sản phẩm – yêu cầu rất quan trọng mà các nhà nhập khẩu đòi hỏi ở ngành hàng.
Những người tiêu dùng cà phê trên thế giới, nhất là cà phê đặc sản rất sành điệu, gắn chặt lòng trung thành trong tiêu dùng với thương hiệu sản phẩm. Hiện giá cà phê robusta tăng cao nhưng các nhà thu mua cà phê rất cân nhắc thay đổi vùng nguyên liệu do e ngại phản ứng của khách hàng khi thay đổi thành phần robusta.
– Theo ông, cần tổ chức sản xuất cà phê như thế nào để giải quyết điểm nghẽn?
Tôi cho rằng, quan trọng nhất là tổ chức sản xuất trong nông dân thông qua phát triển các hợp tác xã và xây dựng liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu mới với hợp tác xã. Hiện nay, các quy định pháp luật và chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đã được các cơ quan chức năng ban hành nhưng quá trình thực thi còn nhiều bất cập. Các hợp tác xã tuy đã đáp ứng yêu cầu về số lượng nhưng năng lực yếu, quy mô và diện tích nhỏ.
Trong khi đó, yêu cầu của ngành hàng cần những hợp tác xã có quy mô lớn, diện tích có thể lên đến hàng nghìn ha, thu hút đông đảo nông dân. Do đó, cần hỗ trợ và phát triển các hợp tác xã lớn mạnh; đồng thời thúc đẩy phát triển công ty nông nghiệp tư nhân để khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể liên kết các trang trại, các hợp tác xã. Đây là đầu mối thu mua, chế biến, còn nông dân chỉ cung cấp nguyên liệu quả tươi theo yêu cầu thì mới đảm bảo đồng nhất chất lượng chế biến. Giải quyết được điểm nghẽn liên quan đến hợp tác xã sẽ thúc đẩy tốt hơn liên kết sản xuất, chế biến sâu.
– Trân trọng cảm ơn ông!
Nguồn: diendandoanhnghiep.vn