Một số quốc gia châu Âu đã bắt đầu xem xét lại các thiết bị mua của Mỹ để đánh giá nguy cơ tổn hại trong một cuộc xung đột tiềm tàng nếu Washington cắt đứt hỗ trợ. Nhiều nước cũng kêu gọi tìm giải pháp để thoát khỏi sự phụ thuộc vào vũ khí Mỹ.
Việc Tổng thống Donald Trump thay đổi chính sách đối ngoại của Mỹ như thân thiện hơn với Nga, tạm dừng viện trợ quân sự Ukraine, thậm chí đe đọa các đồng minh truyền thống, đang khiến châu Âu phải suy nghĩ lại về sự phụ thuộc vào các hệ thống vũ khí của Mỹ.
Máy bay F-35. Ảnh: Getty
Mỹ cung cấp gần 2/3 lượng vũ khí nhập khẩu của châu Âu trong những năm gần đây. Nhiều hệ thống phải phụ thuộc vào nhân viên Mỹ trong việc bảo trì và vận hành. Điều này khiến các nước thành viên EU lo ngại về những gì có thể xảy ra nếu Washington ngừng hỗ trợ các hệ thống vũ khí do Mỹ sản xuất mà các đồng minh NATO ở châu Âu sử dụng.
Hiện tại, một số quốc gia châu Âu đã bắt đầu xem xét lại các thiết bị mua của Mỹ để đánh giá nguy cơ tổn hại trong một cuộc xung đột tiềm tàng với Nga nếu Washington cắt đứt hỗ trợ.
Ngày càng nhiều nước kêu gọi chuyển hướng chi tiêu quốc phòng trong tương lai khỏi vũ khí Mỹ và tập trung vào ngành công nghiệp nội địa, mặc dù nhiều người thừa nhận rằng sẽ không có giải pháp nhanh chóng sau nhiều thập kỷ phụ thuộc vào Washington.
Lo ngại của châu Âu
Với quy mô của ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ và thực tế Mỹ là nhà xuất khẩu vũ khí lớn nhất thế giới, các quan chức châu Âu thừa nhận họ sẽ vẫn phải tiếp tục mua vũ khí từ Washington trong khi xây dựng năng lực nội địa của mình.
Tuy nhiên, sự khó đoán của chính quyền Tổng thống Donald Trump đã khiến châu Âu phải chú trọng hơn vào việc nâng cấp kho vũ khí và phát triển dây chuyền sản xuất của riêng mình.
Cuối tuần trước, khi thông báo Boeing sẽ sản xuất F-47, máy bay chiến đấu thế hệ 6, ông Trump nói rằng phiên bản bán cho các đồng minh có thể sẽ không đầy đủ tính năng như phiên bản nội địa của Mỹ “bởi vì một ngày nào đó có thể họ không còn là đồng minh của chúng ta”.
Các đời chính quyền trước đây của Mỹ cũng từng ngừng cung cấp thiết bị quân sự cho các khách hàng không còn là đồng minh hay bằng hữu. Khi Cách mạng Hồi giáo diễn ra ở Iran năm 1979 và Shah Reza Pahlavi bị lật đổ, chính quyền Tổng thống Jimmy Carter đã ngừng bảo trì và cung cấp phụ tùng cho những chiếc máy bay do Mỹ sản xuất mà Không quân Iran sử dụng.
Sau khi quân đội Ai Cập lật đổ Tổng thống Mohamed Morsi năm 2013, chính quyền Tổng thống Barrack Obama đã đóng băng việc vận chuyển máy bay chiến đấu, trực thăng tấn công và các thiết bị khác cho Cairo. Lệnh đóng băng sau đó được dỡ bỏ, nhưng thực tế này đã thúc đẩy Ai Cập đa dạng hóa nguồn cung, giảm đầu tư vào thiết bị của Mỹ từ 80% xuống chỉ còn 30% hiện nay.
Tuy nhiên, Washington hiếm khi thực hiện các hành động như vậy đối với các đối tác trong liên minh. Cho tới nay, chỉ có Thổ Nhĩ Kỳ bị loại khỏi chương trình máy bay chiến đấu F-35 với lý do Ankara đã mua hệ thống phòng không S-400 của Nga. Quyết định này được đưa ra trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump.
Sự phụ thuộc vào vũ khí Mỹ
Các quan chức EU lo ngại việc phụ thuộc vào hệ thống phòng thủ tên lửa, máy bay giám sát, máy bay không người lái và máy bay chiến đấu của Mỹ có thể trở thành một lỗ hổng lớn, do mối quan hệ căng thẳng giữa Tổng thống Donald Trump với EU. Một số người lo ngại các nền tảng do Mỹ sản xuất có thể không hoạt động được nếu quyền truy cập vào các bộ phận, phần mềm hoặc dữ liệu bị chặn.
“Không phải là Tổng thống Trump chỉ cần ấn một công tắc thì tất cả máy bay trên bầu trời sẽ rơi xuống. Vấn đề nằm ở sự phụ thuộc, đặc biệt là vào việc chia sẻ thông tin tình báo và các liên kết thông tin liên lạc”, một quan chức châu Âu nói.
Một số nước đã hoặc đang có kế hoạch mua máy bay F-35 của Mỹ cho biết, họ đang cân nhắc các lựa chọn thay thế.
“Là một trong những người quyết định việc mua F-35 của Đan Mạch, tôi lấy làm tiếc khi phải làm như vậy”, ông Rasmus Jarlov, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng của quốc hội Đan Mạch, đăng trên mạng xã hội gần đây.
Đan Mạch đang tăng cường chi tiêu quốc phòng sau khi ông Trump nói rằng Greenland cần được bảo vệ tốt hơn và tuyên bố sẽ “lấy” hòn đảo “theo cách này hay cách khác”.
Ông Jarlov kêu gọi tránh mua vũ khí của Mỹ “nếu có thể”.
“Tôi có thể hình dung ra một tình huống mà Mỹ “muốn lấy” Greenland từ Đan Mạch và đe dọa sẽ “tắt” vũ khí của chúng ta nếu chúng ta từ chối. Mua vũ khí của Mỹ là một rủi ro an ninh mà chúng ta không thể chấp nhận”, ông Jarlov nói.
Khi ông Trump đắc cử nhiệm kỳ 2, châu Âu đã lường trước được sức ép ngày càng tăng từ Mỹ về việc tăng chi tiêu quốc phòng. Họ cho rằng việc đặt mua vũ khí Mỹ có thể đáp ứng phần nào yêu cầu đó và mang lại cho ông Trump những chiến thắng về thương mại mà ông muốn.
Nhưng những thay đổi trong chính sách đối ngoại của ông với Nga khiến một số người phải suy nghĩ lại. Lo ngại tăng lên khi ông Trump ngừng viện trợ quân sự và chia sẻ thông tin tình báo cho Ukraine sau cuộc tranh cãi nảy lửa với Tổng thống Volodymyr Zelensky tại Phòng Bầu dục hồi cuối tháng 2.
Dù Mỹ đã nối lại viện trợ và chia sẻ thông tin tình báo, nhưng điều đó không làm dịu đi mối lo ngại.
Lối thoát nào cho châu Âu?
EU mới đây đã công bố kế hoạch về chương trình cho vay trị giá 163 tỷ USD để giúp thúc đẩy chi tiêu và mua sắm quốc phòng.
Các thành viên EU có thể chi tiêu nguồn lực quốc gia của họ theo cách họ muốn, nhưng ưu tiên vũ khí được sản xuất trong khối. Để đủ điều kiện nhận khoản vay trong chương trình này, ít nhất 65% chi phí của sản phẩm phải được chi tiêu trong Liên minh Châu Âu, Na Uy hoặc Ukraine. Các khoản vay sẽ chỉ được cung cấp cho các công ty quốc phòng có trụ sở trong khối EU hoặc các quốc gia ký kết thỏa thuận quốc phòng với EU, hiện tại không có Mỹ.
Các hệ thống vũ khí phức tạp mà nhà cung cấp có “quyền thiết kế” hạn chế cách thức sử dụng và các bộ phận thay thế, ví dụ như hệ thống phòng không Patriot do Raytheon của Mỹ sản xuất, sẽ không đủ điều kiện tham gia chương trình cho vay của EU.
Giải thích về lý do này, một quan chức EU cho biết “sẽ là một vấn đề lớn nếu bất kỳ thiết bị nào mà các quốc gia thành viên đã mua lại không thể được sử dụng cho quốc phòng của họ vì bị nhà cung cấp phản đối”.
Cao ủy EU phụ trách chính sách đối ngoại Kaja Kallas cũng chỉ ra bài học về sự hạn chế của Ukraine trong việc sử dụng vũ khí do nước ngoài cung cấp.
“Chúng ta đang có cơ hội để thực sự xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng châu Âu. Trong trường hợp zảy ra khủng hoảng, quân đội của chúng ta thực sự cần phải có quyền tự do hành động”, bà Kallas nói.
Thủ tướng Thụy Điển Ulf Kristersson nói rằng ông không coi việc mua vũ khí của Mỹ là một rủi ro an ninh. Tuy nhiên, ông cho biết các quốc gia châu Âu “sẽ tốt hơn nếu ít phụ thuộc vào ngành công nghiệp quốc phòng của Mỹ”.
Thách thức lâu dài
Một nhà ngoại giao giấu tên của EU cho rằng khối này nên để ngỏ sáng kiến chi tiêu quốc phòng mới cho các công ty Mỹ, ít nhất là một phần, nếu cần thiết.
“Cho dù mọi người nói gì đi nữa, chúng ta vẫn rất phụ thuộc vào Mỹ, ít nhất là trong 10 năm tới. Chúng ta vẫn phải phụ thuộc vào sự hiện diện của Mỹ ở châu Âu, cho dù là khả năng tình báo hay các chuyến bay vận tải chiến lược của họ”, nhà ngoại giao EU cho biết.
Trong khi châu Âu có các lựa chọn thay thế cho thiết bị như máy bay chiến đấu, ngành công nghiệp quốc phòng của họ lại bị phân tán khắp lục địa và không có khả năng sánh kịp với ngành công nghiệp khổng lồ của Mỹ. Việc xây dựng năng lực quan trọng có thể mất nhiều năm.
Tuy nhiên, các quan chức và giới phân tích cho biết, có một vài lý do để dự đoán rằng châu Âu sẽ chưa thể sớm thoát khỏi sự phụ thuộc vào vũ khí Mỹ.
Các công ty quốc phòng lớn của Mỹ, có sự hỗ trợ rộng rãi từ Quốc hội và có ảnh hưởng với Nhà Trắng. Họ sẽ vận động để duy trì sự thống trị của mình trên các thị trường toàn cầu. Các giao dịch mua bán vũ khí giữa chính phủ với chính phủ của Mỹ đã đạt mức cao kỷ lục vào năm 2024. Các giao dịch chính phủ với chính phủ đạt 118 tỷ USD, tăng 46% so với năm trước, và các giao dịch thương mại trực tiếp đạt 201 tỷ USD.
Nguồn: vov.vn