Tản Đà (1889 – 1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng VN. Quê ông ở Khê Thượng, H.Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc H.Ba Vì, Hà Nội). Bút danh Tản Đà là ghép giữa tên núi Tản Viên và sông Đà. Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng, tổ tiên xưa có nhiều đời làm quan dưới triều Lê.
Giai đoạn 1915 – 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của ông được xuất bản, gây tiếng vang lớn là tập thơ Khối tình con I. Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con và một số vở tuồng. Năm 1917, Phạm Quỳnh lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Từ 1919 – 1921, Tản Đà viết một loạt sách, truyện, thơ. Năm 1922, ông thành lập nhà xuất bản riêng “Tản Đà thư điếm”. Tại đây đã xuất bản và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà. Năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân cho in tác phẩm Thi nhân Việt Nam nổi tiếng, cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế “chủ súy” của Hội Tao đàn, ở những trang đầu tiên, như một người mở lối cho thi ca VN bước vào giai đoạn tươi đẹp mới.
Cây bút báo chí sắc sảo
Tản Đà không chỉ là nhà thơ, nhà văn nổi bật giai đoạn giao thời giữa văn học trung đại và hiện đại, mà còn là một trong những cây bút báo chí sắc sảo, có ảnh hưởng sâu rộng trước Cách mạng tháng Tám. Ông để lại nhiều dấu ấn trong nền báo chí VN đầu thế kỷ 20 nhờ văn phong đặc trưng mang đậm chất văn học và tinh thần dân tộc. Tản Đà có nhiều đóng góp lớn trong lĩnh vực báo chí, là cây bút chủ lực cho nhiều tờ báo nổi tiếng. Tản Đà từng cộng tác với nhiều tờ báo lớn ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ như Đông Dương tạp chí, Phong Hóa, Ngày Nay, Nam Phong, đặc biệt là tự đứng ra làm chủ bút và sáng lập An Nam tạp chí năm 1926. Ông viết nhiều thể loại: xã luận, tản văn, phiếm luận, khảo cứu, bình luận chính trị – xã hội, thơ trào phúng… Các bài viết của ông thường có chất thơ, giọng văn trào phúng sâu cay, mang tính phê phán xã hội mạnh mẽ. Tản Đà cũng là người góp phần đưa văn chương vào báo chí và là người đầu tiên có ý thức rõ rệt về việc kết hợp văn chương và báo chí, làm cho báo chí không chỉ đơn thuần là phương tiện truyền tin mà còn là nơi gieo trồng cảm xúc thẩm mỹ, tư tưởng nhân văn. Chính vì thế, báo chí qua tay Tản Đà vừa dễ tiếp cận với đại chúng, vừa đủ độ sâu để lay động trí tuệ và tình cảm người đọc.

Nhà văn Tản Đà ẢNH: TL
Các bài viết của Tản Đà mang tiếng nói phản biện xã hội sâu sắc. Qua báo chí, ông nhiều lần chỉ trích chế độ thực dân, phong kiến, phơi bày bất công xã hội, lên án sự lạc hậu, mê tín, bảo thủ trong tầng lớp quan lại. Ông sử dụng báo chí như một công cụ thức tỉnh dân trí và khơi dậy lòng yêu nước, điển hình trong các bài báo Tôi kéo xe, Bút chiến với Phạm Quỳnh, Cảm đề Nam Phong… Các bài báo của Tản Đà thường đậm chất văn chương, dí dỏm, hài hước nhưng chứa đựng những nhận định thâm thúy về con người và thời cuộc. Ông hay dùng lối chơi chữ, so sánh đầy hình tượng, đôi khi lồng ghép cả thơ vào bài báo khiến văn phong trở nên sống động và giàu cảm xúc.
Ngôn ngữ báo chí của Tản Đà gần gũi, mang tính cá nhân rõ nét, ông không theo lối viết khuôn mẫu, cứng nhắc. Văn báo của ông mang đậm phong cách “tự do tài tử”, rất đời thường, tự nhiên, như lời tâm sự với độc giả; cách đặt tiêu đề bài viết và mở bài của ông thường gợi sự tò mò, dễ thu hút độc giả từ câu đầu tiên.
Trong các bài báo, Tản Đà kết hợp linh hoạt giữa bình luận và kể chuyện. Ông không viết báo như người truyền tin đơn thuần, mà luôn lồng ghép suy nghĩ, cảm xúc, thậm chí triết lý sống vào đó. Một bài báo của ông thường như một tùy bút ngắn, đầy chất văn, tạo ấn tượng khó quên. Các bài học báo chí từ phong cách của Tản Đà cho thấy báo chí cần văn hóa và nhân cách của người viết. Ông chứng minh rằng nhà báo giỏi không chỉ cần kiến thức thời sự mà còn cần tâm hồn văn chương, lòng yêu nước, và dũng khí phản biện. Ông cũng tôn vinh chất văn làm đẹp và làm sâu sắc ngôn ngữ báo chí.
Tản Đà nâng tầm bài báo từ công cụ truyền tải thông tin lên thành phương tiện biểu đạt cảm xúc, suy tưởng và lý tưởng sống. Ông cũng đề cao sự trung thực và chính trực trong ngòi bút. Tản Đà không ngại va chạm với các cây bút lớn đương thời nếu thấy điều đó là cần thiết để bảo vệ chân lý và sự thật. Điều này là bài học lớn về đạo đức nghề nghiệp trong báo chí. Có thể khẳng định Tản Đà là biểu tượng của một thế hệ trí thức giao thời, dùng ngòi bút để đấu tranh, phản biện. Những đóng góp của ông trong lĩnh vực báo chí không chỉ dừng lại ở số lượng bài viết mà còn ở cách ông định hình vai trò của người làm báo nhưmột nghệ sĩ, một chiến sĩ và một nhà tư tưởng. Văn phong độc đáo, sâu sắc và gần gũi của Tản Đà vẫn là nguồn cảm hứng quý giá cho các thế hệ nhà báo hiện đại.
Nguồn: thanhnien.vn