Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh năm 1903 tại Văn Giang, Hưng Yên, trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học. Từ nhỏ, ông đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối, những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này.

Nhà văn Nguyễn Công Hoan Ảnh: Tư liệu
Nguyễn Công Hoan là người kể chuyện để phơi bày hiện thực xã hội, và nhiều truyện ngắn của ông mang tính báo chí cao, bởi chúng nói thẳng vào vấn đề đương thời, phản ánh thực trạng xã hội một cách nhanh gọn, gây cười mà đau. Có thể điểm qua một số truyện ngắn nổi tiếng của ông như Kép Tư Bền (Phong Hóa, 1935) miêu tả một anh kép tuồng phải “cười” trên sân khấu trong khi mẹ anh đang hấp hối dưới gầm nhà hát. Tác phẩm phê phán xã hội thờ ơ, phi nhân tính, biến nghệ sĩ thành công cụ giải trí bất chấp nỗi đau riêng. Là một truyện ngắn đăng báo nhưng mang tính thời sự xã hội rất rõ khi đời sống văn nghệ sĩ bị rẻ rúng, nghề nghiệp bị thương mại hóa và bóp méo.
Trong truyện ngắn Một tấm lòng (Ngày Nay, 1937), bằng giọng văn châm biếm lạnh lùng, Nguyễn Công Hoan kể về một người lính đánh chết vợ vì “yêu thương quá mức”. Tác phẩm phản ánh tư duy phong kiến sai lệch và sự bạo hành được ngụy trang bằng danh nghĩa đạo đức. Đây là một dạng “bài báo thời sự bằng truyện ngắn” vừa mang tính phản ánh thực tế xã hội, vừa gợi nên sự phẫn nộ lặng lẽ nơi người đọc.
Với giọng văn bi hài, truyện ngắn Tinh thần thể dục (Tiểu thuyết thứ bảy, 1939) kể chuyện cả làng bị ép buộc “rèn luyện thể dục” theo phong trào hình thức. Những người yếu, người bệnh, thậm chí sắp chết, cũng bị bắt ra tập để làm “thành tích”. Tác phẩm phơi bày sự hình thức hóa, máy móc, và hài hước đến phi lý trong bộ máy cai trị thời Pháp thuộc. Ngòi bút vừa bi hài vừa hiện thực của ông phản ánh một xã hội đang “diễn” thay vì sống. Đặc trưng ngôn ngữ báo chí của Nguyễn Công Hoan là nụ cười trào phúng sắc lẻm với lối viết sắc sảo, đơn giản, giàu tính kịch. Ông không dùng văn hoa, mà dùng văn đời ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, nhưng đầy kịch tính. Các tình huống trong truyện báo chí của ông thường được dẫn dắt rất nhanh, đưa người đọc vào ngay “mâu thuẫn xã hội” chỉ trong vài dòng. Cách này rất gần với lối viết tường thuật báo chí hiện đại là chú trọng sự mở đầu gây ấn tượng và nhanh chóng vào chủ đề.
Với giọng điệu trào phúng, châm biếm nhưng nhân đạo, Nguyễn Công Hoan có biệt tài châm biếm mà không độc ác. Giọng văn của ông như một cái gương phóng đại, làm bật lên sự nực cười của cái sai, cái giả, cái vô lý, để độc giả tự bật cười mà nhận ra vấn đề. Văn phong châm biếm không nhằm bêu xấu cá nhân, mà lật mặt hệ thống suy đồi từ quan lại, pháp luật, y tế đến giáo dục…
Các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan cho thấy viết báo phải đánh trúng vào sự phi lý và giả tạo. Ông dạy rằng, viết báo không chỉ phản ánh “chuyện có thật” mà phải bóc trần “sự thật bên dưới”, đặc biệt là những giá trị đảo điên, sự hình thức, và thói giả nhân giả nghĩa trong xã hội. Muốn như vậy, người làm báo cần quan sát sâu sắc và có con mắt hài hước đầy tỉnh táo. Ông thường dùng tiếng cười để lay động, không cần dùng ngôn ngữ giật gân, để tình huống tự nói lên tiếng cười mỉa mai. Đây là một bài học cho người viết báo bằng ngôn ngữ báo chí không cần ồn ào, chỉ cần đúng chỗ và đúng lúc là đủ sức thuyết phục.
Một đặc trưng nữa, phong văn báo chí cũng cần tới nghệ thuật kể chuyện, và Nguyễn Công Hoan đã kết hợp tài tình giữa báo chí với văn học và sân khấu, khiến mỗi truyện đăng báo giống như một tiểu phẩm kịch phản ánh đời sống xã hội.
Nguyễn Công Hoan là cây bút báo chí trào phúng hiện thực bậc thầy, dùng truyện ngắn làm phương tiện phê phán xã hội, chống lại sự vô lý và tha hóa bằng tiếng cười thông minh. Ngôn ngữ báo chí của ông không màu mè, không sáo rỗng, vừa sắc sảo vừa có chất nhân văn, luôn đứng về phía người dân thấp cổ bé họng.
Trong bối cảnh báo chí hôm nay đôi khi sa vào sự hời hợt, thì bài học báo chí từ nhà văn Nguyễn Công Hoan như một lời nhắc: một câu chuyện đời thường, nếu viết đúng và viết thật, có thể trở thành bản cáo trạng hùng hồn nhất đối với bất công xã hội.
Nhà văn Nguyễn Công Hoan là đảng viên Đảng Lao động VN từ năm 1948. Năm 1951, ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ chín năm. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn VN (khóa đầu tiên 1957 – 1958), Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban chấp hành Hội Nhà văn VN các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật VN, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn Nghệ). Nguyễn Công Hoan mất năm 1977 tại Hà Nội. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996.
Nguồn: thanhnien.vn