Wednesday, June 18, 2025

Nhà văn Kim Lân với dòng báo chí ‘Nghệ thuật vị nhân sinh’

Số trang viết của nhà văn Kim Lân không nhiều, song ông đạt dấu ấn trong cả nghề văn lẫn diễn xuất điện ảnh. Phong cách viết báo của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ báo chí và văn học, giữa hiện thực và lòng nhân ái, là bài học quý báu cho những người cầm bút hôm nay.

Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà văn Kim Lân chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Là nhà văn tham gia điện ảnh sớm và có các vai diễn ấn tượng, ông đặc biệt được nhớ đến với vai Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy (1982); vai Lý Cựu phim Chị Dậu (1980). Các vai tiêu biểu khác: Cả Khiết trong vở Cái tủ chè của nhà văn Vũ Trọng Can; Pụ Pạng trong phim Vợ chồng A Phủ (1961); cụ Lang Tâm – Hà Nội 12 ngày đêm (2002); phim truyền hình: Lão Pẩu – phim Con Vá (2001). Các tác phẩm đã xuất bản của Kim Lân: Vợ nhặt (truyện ngắn, 1948), Làng (truyện ngắn, 1948), Con chó xấu xí (truyện ngắn, 1962), Tuyển tập Kim Lân (1998, 2003)…
Nhà văn Kim Lân với dòng báo chí 'Nghệ thuật vị nhân sinh'

Nhà văn Kim Lân Ảnh: Nguyễn Đình Toán

Tôi may mắn có được một số lần tiếp xúc với nhà văn Kim Lân. Ông có duyên kể chuyện, hoạt bát và khá khôi hài. Khi trò chuyện cùng nhà văn Kim Lân, các nhà văn trẻ chúng tôi thường được nghe một số giai thoại thú vị về thế hệ các văn nghệ sĩ thời kỳ đầu cách mạng như: Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Văn Cao, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Tạ Thúc Bình… Những năm tháng gian lao ấy, vùng ấp Đồi Cháy ở Nhã Nam, Bắc Giang đã trở thành một “căn cứ địa” của văn hóa kháng chiến. Những lần được hầu chuyện ông, tôi thấy trong con – người – nhà – văn của Kim Lân, cùng với sự hiểu biết sâu sắc thông tuệ là cả một kho ký ức. Nhà văn Kim Lân cho tôi biết, ông cầm bút vì nhiều nguyên nhân ẩn ức chất chứa trước sự bất công trong đời sống xã hội nơi làng quê thời trước Cách mạng. Sinh ra ở một miền quê bị trói buộc bởi nhiều hủ tục phong kiến, lại ở vào thân phận mặc cảm – con một người vợ lẽ, ngay từ thủa thiếu thời, Kim Lân đã có ý chí tự lập thân, tự vươn lên khá mạnh mẽ.

Trong buổi đầu đến với văn chương, Kim Lân đã gặp gỡ Nguyên Hồng (lúc ấy đã là một nhà văn nổi tiếng), và tình bằng hữu văn chương đã gắn bó các ông suốt thời gian dài từ trước Cách mạng đến kháng chiến và sau này trong hòa bình. Có lần tâm sự với tôi, nhà văn Kim Lân khẳng định: “Có thể nói, kể từ khi gặp Nguyên Hồng, ý thức viết văn chuyên nghiệp của tôi mới dần dần được hình thành sáng rõ, vì thời gian trước đó, tôi viết theo cảm hứng và viết để giải tỏa những bức xúc, ẩn ức mà mình thấy cần phải cầm bút để nói. Ông Nguyên Hồng thấy tôi cũng nghèo nghèo, khổ khổ nên ông ấy cũng thích. Vào năm đói 1945, tôi thường mang truyện ngắn đến nhờ Nguyên Hồng “bán” hộ cho các tờ báo lớn, trong đó có nhiều chuyện viết về phong tục và thú chơi của các làng quê ở xứ Kinh Bắc”.

Mặc dù tên tuổi Kim Lân gắn liền với truyện ngắn, nhưng trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ông cũng đã có những đóng góp đáng kể trong lĩnh vực báo chí, đặc biệt là ở mảng tản văn, truyện ngắn đăng báo và tiểu phẩm mang tính xã hội, trào phúng. Ông cộng tác với nhiều tờ báo văn nghệ tiến bộ thời kỳ 1939 – 1945. Tên ông xuất hiện trên các tờ như Tiểu thuyết thứ bảy, Phong Hóa, Ngày Nay

Dù không viết xã luận hay phóng sự điều tra, Kim Lân dùng hình thức tiểu phẩm, truyện ngắn ngắn gọn trên mặt báo để phản ánh hiện thực đời sống nông dân, người lao động nghèo một cách sâu sắc. Trong khi nhiều tờ báo thời đó thiên về trào phúng, chính trị hoặc thời sự, Kim Lân lựa chọn đưa những mẩu chuyện nhỏ về đời sống làng quê lên mặt báo và điều này giúp lan tỏa sự quan tâm tới tầng lớp bị lãng quên trong văn hóa đô thị hóa. Ông tham gia phong trào văn nghệ hiện thực tiến bộ trước Cách mạng cùng với những tên tuổi như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, đi theo con đường nghệ thuật vị nhân sinh, dùng ngòi bút để bênh vực người yếu thế, nói lên sự thật, và đề cao lòng nhân ái. Một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân là Vợ nhặt, một khúc bi ca nhân đạo giàu cảm xúc về số phận con người.

Phong cách văn chương trong làm báo của Kim Lân chú trọng sự giản dị, mộc mạc nhưng sâu sắc và gợi cảm. Ngôn ngữ báo chí của ông đậm chất văn học dân gian. Ông thường sử dụng ngôn ngữ mang sắc thái khẩu ngữ Bắc bộ, nhuần nhị, dí dỏm, gợi không khí làng quê và điều này giúp bài viết báo không khô khan mà đậm tính đời sống, dễ nghe, dễ nhớ.

Đặc trưng trong phong cách văn chương, báo chí của Kim Lân là sự lặng lẽ nhưng lay động, viết về cái nghèo mà không bi lụy, viết về con người nhỏ bé mà vẫn đầy phẩm giá. Cách ông thể hiện điều đó trong các bài viết ngắn đăng báo là bài học lớn về lối viết nhân văn trong báo chí. Ông chứng minh rằng người làm báo không nhất thiết phải luôn “giật gân” mới có ảnh hưởng. Đôi khi, một bài viết nhẹ nhàng, chân thành và xúc động về số phận một con người cũng đủ khiến cả xã hội phải suy ngẫm với chất văn là linh hồn của báo chí nhân đạo.

Viết báo như Kim Lân là một cách “làm văn hóa” nhằm nâng tầm cái thường ngày, cái bé nhỏ, thành những giá trị nhân bản phổ quát. Đây là bài học về việc làm báo để nuôi dưỡng lòng trắc ẩn, chứ không chỉ để đưa tin. (còn tiếp)

Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1921, ở làng Phù Lưu, TX.Từ Sơn, Bắc Ninh, là hội viên sáng lập Hội Nhà văn VN năm 1957. Ông mất năm 2007 tại Hà Nội. Kim Lân tham gia hoạt động văn hóa cứu quốc trước năm 1945, công tác ở chiến khu Việt Bắc. Từng là ủy viên Ban Phụ trách Nhà xuất bản Văn học, Trường bồi dưỡng những người viết trẻ, tuần báo Văn Nghệ, Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 2001.

 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
spot_img
spot_img
spot_img
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN
- Quảng Cáo -spot_img