Người nàocung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, vu khống người khác hay doanh nghiệp thì có thể bị xử phạt hành chính, hoặc bị xử lý hình sự.
Ngày 26.6, Báo Thanh Niên tổ chức tọa đàm “Ứng phó với tin giả trên mạng xã hội như thế nào?”, với sự đồng hành của Công ty cổ phần Acecook Việt Nam.
Tại tọa đàm, luật sư – TS Hà Hải (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM) nhấn mạnh: “Quan niệm chỉ chia sẻ lại thông tin thì không sao, là một suy nghĩ sai lầm. Pháp luật Việt Nam quy định hành vi chia sẻ thông tin giả mạo, sai sự thật cũng bị xử lý như cung cấp thông tin giả”.
Cụ thể, theo Nghị định 15 năm 2020 của Chính phủ, hành vi “cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”, sẽ bị xử phạt từ 10 – 20 triệu đồng đối với tổ chức, còn đối với cá nhân từ 5 – 10 triệu đồng.
Bên cạnh việc phạt tiền, người chia sẻ cũng bị buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật, hoặc gây nhầm lẫn, hoặc thông tin vi phạm pháp luật.

Toàn cảnh tọa đàm “Ứng phó với tin giả trên mạng xã hội như thế nào?” do Báo Thanh Niên tổ chức với sự đồng hành của Công ty cổ phần Acecook Việt Nam
ẢNH: ĐỘC LẬP
“Dù không phải là người tạo ra tin giả, việc nhấn nút chia sẻ trên mạng xã hội cũng đồng nghĩa với việc tiếp tay cho việc lan truyền thông tin sai trái. Do vậy, người sử dụng cần có trách nhiệm đảm bảo những thông tin bản thân đăng tải, chia sẻ trên mạng là những thông tin đúng sự thật”, luật sư Hà Hải nhấn mạnh.
Người nào chủ động cung cấp đường dẫn đến trang thông tin điện tử, hoặc ứng dụng có nội dung vi phạm pháp luật (thông tin xuyên tạc, tin giả, tin sai sự thật) sẽ bị phạt tiền từ 30 – 50 triệu đồng…
Cùng theo luật sư – TS Hà Hải, tùy theo mức độ vi phạm, hành vi tung tin giả còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chẳng hạn về các tội như: tội làm nhục người khác; tội vu khống; tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông; tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Bên bị thiệt hại, làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?
Luật sư – TS Hà Hải cho biết bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Theo luật sư – TS Hà Hải (Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.HCM, bên phải): “Quan niệm chỉ chia sẻ lại thông tin thì không sao, là một suy nghĩ sai lầm”
ẢNH: ĐỘC LẬP
Ngoài ra, bộ luật Tố tụng dân sự 2015 còn quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”.
Do đó, khi người dân, doanh nghiệp bị thiệt hại do bị tin giả gây ra có quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại, nếu có căn cứ rằng tin giả đã làm tổn hại đến uy tín, tài sản, hoặc lợi ích kinh tế của mình. Cụ thể, căn cứ để xác định thiệt hại gồm có lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; thu thập thực tế bị mất hoặc giảm sút…
Khi khởi kiện cần chuẩn bị những gì?
Theo luật sư – TS Hà Hải, để khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người dân, doanh nghiệp cần chuẩn bị căn cứ để chứng minh 4 yếu tố.
Thứ nhất, có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. Nghĩa là chứng minh có hành vi tung tin giả, sai sự thật, vu khống, xúc phạm danh dự, uy tín của mình. Người bị thiệt hại cần thu thập và lưu giữ bằng chứng cụ thể về tin giả (đường link, ảnh chụp màn hình, video, bài viết…) và thông tin về người/tổ chức đã đăng hoặc lan truyền tin đó.
Thứ hai, có thiệt hại thực tế xảy ra. Những thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm theo khoản 1 điều 592 bộ luật Dân sự 2015 gồm: chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại khác do luật quy định.
Doanh nghiệp cần thu thập các tài liệu kế toán, báo cáo tài chính, hợp đồng kinh tế, chứng từ giao dịch để chứng minh sự sụt giảm doanh thu, lợi nhuận, hoặc các chi phí phát sinh trực tiếp do tin giả gây ra.
Thu thập các bằng chứng gián tiếp nhưng có sức thuyết phục để làm cơ sở yêu cầu bồi thường như báo cáo khảo sát dư luận, phân tích truyền thông về mức độ ảnh hưởng của tin giả đến hình ảnh thương hiệu, phản hồi tiêu cực từ khách hàng, đối tác, hoặc sự biến động bất lợi của giá cổ phiếu (nếu là công ty niêm yết)…
Thứ ba, có lỗi của bên gây thiệt hại. Chứng minh người/tổ chức tung tin giả có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi, gây ra thiệt hại cho doanh nghiệp.
Thứ tư, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại. Cần chứng minh thiệt hại mà doanh nghiệp gánh chịu là hậu quả trực tiếp của hành vi tung tin giả.
Luật sư Hà Hải lưu ý thêm, khi một doanh nghiệp, hoặc cá nhân phát hiện mình đang là nạn nhân của tin giả, cần nhanh chóng thu thập và lưu giữ bằng chứng chẳng hạn như như đường link bài viết, hình ảnh, nội dung, video, âm thanh. Sau đó, mời thừa phát lại đến lập vi bằng. Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất.
Nếu có thiệt hại, cần thu thập bằng chứng về thiệt hại đã xảy ra như: hóa đơn, báo cáo tài chính, hợp đồng bị hủy, phản hồi tiêu cực từ khách hàng, đối tác. Nạn nhân cần thông báo tin giả (kèm theo các bằng chứng đã thu thập) đến các cơ quan có thẩm quyền để được hỗ trợ xử lý như: Trung tâm Xử lý tin giả Việt Nam (VAFC), Sở Văn hóa – Thể thao, UBND, công an…
Nguồn: thanhnien.vn