Wednesday, August 6, 2025

Nguồn lực lớn cho doanh nghiệp từ tín chỉ carbon

Biết cách khai thác tín chỉ carbon và tận dụng kết nối các thị trường, nguồn lực doanh nghiệp nhận được có thể tăng 20 – 30 lần so với giá tín chỉ thông thường.

Ông Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường đã chia sẻ thông tin về xu hướng kết nối toàn cầu hiện nay trong giao dịch tín chỉ carbon. Đây là sản phẩm đặc thù mà khi thị trường carbon định hình và hoàn thiện khung khổ pháp lý, tài chính, kỹ thuật, doanh nghiệp Việt hoàn toàn có thể làm quen và chủ động tham gia giao dịch như đã từng làm với thị trường chứng khoán.

Nguồn lực lớn cho doanh nghiệp từ tín chỉ carbon

Ông Nguyễn Đình Thọ – Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường cho biết: phát triển thị trường carbon góp phần huy động nguồn lực tài chính phục vụ chuyển đổi xanh

Nguồn lực của thời đại xanh

Ông Nguyễn Đình Thọ nhấn mạnh: thị trường carbon với hai loại: thị trường tuân thủ và thị trường tự nguyện – được xác định là công cụ then chốt để huy động nguồn lực tài chính đảm bảo quá trình chuyển đổi xanh và giảm phát thải của các nền kinh tế. Hiện trên thị trường tuân thủ, tại Thụy Sĩ, giá tín chỉ carbon hiện ở mức 120 franc Thụy Sĩ, tương đương khoảng 150 USD/ tấn.

Tuy nhiên, mức giá này không đồng đều mà đang xu hướng phân hoá rõ rệt. Theo ông Nguyễn Đình Thọ, EU và New Zealand là hai thị trường có mức giá cao nhất, phản ánh cam kết mạnh mẽ trong giảm phát thải.

Ngoài ra, khả năng giảm phát thải tăng dần theo từng nấc giá: dưới 10 USD, từ 10 – 30 USD, từ 30 – 50 USD và trên 70 USD. Mỗi mức giá này tương ứng với một nhóm giải pháp khác nhau, từ dễ thực hiện và chi phí thấp đến các giải pháp công nghệ cao và quy mô lớn. Điều này cho thấy, thị trường carbon không chỉ là công cụ định giá khí thải mà còn là đòn bẩy giúp định hình lộ trình chuyển đổi xanh phù hợp với năng lực từng quốc gia và doanh nghiệp.

Tính đến nay, thị trường carbon toàn cầu đã huy động được 373 tỷ USD kể từ năm 2007. Riêng năm 2024, con số này là 70 tỷ USD cho thấy vai trò ngày càng lớn của tài chính carbon trong việc hỗ trợ các mục tiêu khí hậu toàn cầu.

Bên cạnh đó, xu hướng toàn cầu hiện nay không có sự khu biệt giữa các thị trường mà đang đẩy mạnh kết nối thị trường tự nguyện với thị trường tuân thủ, thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Không đứng ngoài cuộc, Việt Nam hiện đang chuẩn bị ký kết thỏa thuận hợp tác với Singapore – quốc gia cho phép kết nối giữa thị trường tuân thủ và thị trường tự nguyện.

Trong phụ lục thỏa thuận giữa hai nước, các tiêu chuẩn quốc tế và một số tiêu chuẩn uy tín khác đã được liệt kê và công nhận. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam tham gia thị trường carbon một cách khôn ngoan, tận dụng hiệu quả các nguồn tài chính khí hậu, hỗ trợ chuyển đổi công nghệ, giảm phát thải và đồng thời huy động thêm nguồn lực cho đất nước, cho doanh nghiệp và cho người dân.

Theo ước tính sơ bộ, biết cách khai thác các cơ hội từ tín chỉ carbon, tận dụng sự kết nối giữa các thị trường, cơ hội tài chính mang lại cho doanh nghiệp có thể tăng gấp 20 – 30 lần so với giá bán tín chỉ thông thường. Ngoài ra, sự liên kết này sẽ mở ra nhiều cơ hội khác. Các đối tác như Hồng Kông và Singapore hiện rất quan tâm, khao khát thúc đẩy liên kết này trong khu vực châu Á, hướng tới một mạng lưới carbon khu vực châu Á – Thái Bình Dương và tiến xa hơn là kết nối toàn cầu.

Lợi ích của doanh nghiệp

Các thị trường carbon tuân thủ trên thế giới đang chủ yếu tập trung vào 2 lĩnh vực chính là năng lượng và công nghiệp. Tại Việt Nam, trong giai đoạn thí điểm sẽ triển khai 3 ngành phát thải lớn là thép, xi măng và nhiệt điện.

Nguồn lực lớn cho doanh nghiệp từ tín chỉ carbon

Thép là một trong 3 ngành phát thải lớn tại Việt Nam và thực hiện thí điểm

Việc định giá carbon và thiết lập thị trường carbon cũng đang là yêu cầu bắt buộc với Việt Nam khi Liên minh châu Âu yêu cầu tất cả sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu vào thị trường này không được có nguồn gốc từ phá rừng sau ngày 1/1/2021. Từ năm 2026, châu Âu cũng chính thức áp thuế CBAM lên 5 nhóm sản phẩm là sắt thép, nhôm, xi măng, phân bón hoá học và hydro.

Trong bối cảnh đó, ông Nguyễn Đình Thọ cho rằng, các doanh nghiệp tại Việt Nam không tham gia giao dịch tín chỉ carbon nội địa, không mua bán tín chỉ carbon trong nước thì khi xuất khẩu sang châu Âu sẽ không được khấu trừ chi phí carbon. Điều này vừa khiến hàng hóa Việt Nam kém cạnh tranh mà Nhà nước mất đi nguồn thu hợp pháp từ tín chỉ carbon – vốn có thể được hạch toán và khấu trừ theo quy định CBAM khi chúng ta có thị trường carbon minh bạch và vận hành hiệu quả.

Vì vậy, phát triển thị trường carbon là một yêu cầu cấp bách, không thể chậm trễ. Đây cũng là cơ hội quan trọng để huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh. Nếu không tận dụng, nguồn lực này sẽ rơi vào tay các quốc gia khác.

Về cơ chế hoạt động của thị trường, theo Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách nông nghiệp và môi trường sẽ dựa trên nguyên tắc đơn giản: doanh nghiệp nào đầu tư chuyển đổi công nghệ, giảm được phát thải thì có thể bán phần tín chỉ carbon đó cho doanh nghiệp khác chưa hoặc không thể chuyển đổi.

Quyết định có nên chuyển đổi công nghệ hay không phụ thuộc vào giá carbon trên thị trường. Nếu giá bán tín chỉ carbon cao hơn chi phí chuyển đổi công nghệ, doanh nghiệp nên đầu tư chuyển đổi. Ngược lại, giá tín chỉ thấp, doanh nghiệp có thể chọn mua tín chỉ để đáp ứng yêu cầu ngắn hạn và chờ thời điểm thích hợp để đầu tư sau.

Đây chính là logic vận hành của thị trường carbon – nơi tín hiệu giá đóng vai trò điều phối hành vi của các bên tham gia. Lộ trình của Việt Nam là đến năm 2028 sẽ hoàn tất giai đoạn thí điểm và từ 2029 bắt đầu vận hành chính thức.

Quá trình này cũng giống như thị trường chứng khoán của Việt Nam đã từng đi qua. Khi thị trường định hình và hoàn thiện, doanh nghiệp Việt có thể làm quen và chủ động tham gia giao dịch như đã từng làm với thị trường chứng khoán.

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN