Wednesday, September 3, 2025

80 năm dựng xây nền kinh tế độc lập, tự cường và hội nhập

Từ một nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh, Việt Nam đã từng bước vượt qua bao thử thách để trở thành một trong những nền kinh tế năng động nhất châu Á. Trải qua 80 năm xây dựng và phát triển, hành trình kinh tế Việt Nam là câu chuyện về ý chí tự cường, khát vọng đổi mới và nỗ lực hội nhập toàn diện.

Kỳ tích của sự nỗ lực không ngừng

Từ khi giành được độc lập vào năm 1945, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua một chặng đường đầy gian khó nhưng kiên cường, bứt phá. Trong những năm đầu kiến quốc và kháng chiến, kinh tế mang tính tự túc cao, khai thác nguồn lực nội sinh, với cơ chế bao cấp và nền kinh tế kế hoạch hóa. Sau năm 1975, công nghiệp và hạ tầng dần được hình thành; sản lượng xi măng, than, thép đều tăng trưởng đáng kể cùng với việc xây dựng Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, Thủy điện Hòa Bình,… là tiền đề cho quá trình phát triển sau này.

80 năm dựng xây nền kinh tế độc lập, tự cường và hội nhập

Tổng Bí thư Tô Lâm, Thủ tướng Phạm Minh Chính, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và các đại biểu dự Lễ khởi công, khánh thành 250 dự án, công trình trên khắp cả nước chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, tại điểm cầu Trung tâm Hội chợ Triển lãm Quốc gia, ngày 19/8/2025

Tuy vậy, nền kinh tế vẫn rơi vào khó khăn, lạm phát cao và mô hình bao cấp không còn phù hợp. Bước ngoặt mang tính “sống còn” chính là Đại hội VI năm 1986, khi Việt Nam chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ tư duy mới về đa thành phần kinh tế, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, khoán hộ, cải cách tài chính – ngân hàng. Thành quả ban đầu rõ rệt với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1986 – 1990 đạt 4,4%, giai đoạn 1991 – 2000 tăng 7% mỗi năm. Lạm phát giảm mạnh từ mức 453,5% năm 1986 xuống 95,8% năm 1989 và 37,7% năm 1992. Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 14,45 tỷ USD, gấp 18,3 lần so với 1986.

Từ năm 2001 đến năm 2020, Việt Nam tiếp tục bứt phá với tốc độ GDP bình quân 6,58%/năm; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD, tăng 5,57 lần so với năm 2000, đưa Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước nghèo, vượt ngưỡng thu nhập trung bình thấp. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 50,56% GDP trong khi khu vực nhà nước chỉ khoảng 20,66%. Khu vực FDI chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2020 đạt 282,6 tỷ USD, gấp 19,5 lần so với năm 2000.

80 năm dựng xây nền kinh tế độc lập, tự cường và hội nhập

Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang công nghiệp hóa và dịch vụ hiện đại

Đặc biệt, từ năm 2020 đến nay, Việt Nam giữ vững đà tăng trưởng bền vững. Đến năm 2024, quy mô GDP ước đạt 476,3 tỷ USD, gấp 59,5 lần so với năm 1986 ( khoảng 8 tỷ USD). Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 thế giới; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (năm 1993) xuống dưới 3% (năm 2024); tỷ lệ tầng lớp trung lưu năm 2022 đạt 13%, dự báo lên 26% vào năm 2026. Vốn FDI thực hiện năm 2024 đạt kỷ lục 25 tỷ USD, 6 tháng đầu năm 2025 đạt khoảng 11,72 tỷ USD, tăng 8,1% và là con số cao nhất của 6 tháng đầu năm giai đoạn 2021 – 2025. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 800 tỷ USD, 6 tháng đầu năm 2025 đạt 432,03 tỷ USD, duy trì tăng trưởng 2 con số so với cùng kỳ năm trước,…

Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang công nghiệp hóa và dịch vụ hiện đại. Tỷ trọng nông, lâm, thủy sản giảm xuống dưới 12%, trong khi công nghiệp và dịch vụ chiếm vai trò chủ đạo. Các ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ thông tin, viễn thông, chế tạo, dệt may, da giày, công nghiệp bán dẫn, công nghệ cao,… ngày càng khẳng định vai trò trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, chặng đường gần 40 năm đổi mới đã ghi dấu một Việt Nam kiên cường, bứt phá và khát khao phát triển. Từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, kém hiệu quả, với thu nhập bình quân đầu người vẻn vẹn 96 USD vào năm 1989, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, dự kiến cuối năm 2025, sẽ bước vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình cao, tương đương mức trên 5.000 USD/ người/năm. Kỳ tích này không chỉ là kết quả của đường lối phát triển đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng với những cải cách táo bạo, quyết đoán về thể chế, chính sách và hội nhập mà còn là thành quả của tinh thần lao động chăm chỉ, sáng tạo, ý chí quyết tâm và sự nỗ lực không ngừng của toàn dân tộc.

Bước và kỷ nguyên vươn mình, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ các cải cách quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Một trong những bước đi nổi bật là chủ trương sáp nhập, điều chỉnh địa giới hành chính nhằm tinh gọn bộ máy, giảm đầu mối, tối ưu hóa nguồn lực quản lý. Việc hợp nhất một số đơn vị hành chính đã giúp cắt giảm chi phí, tăng cường hiệu quả quản lý và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho phát triển kinh tế địa phương.

Song song đó, Việt Nam cũng thực hiện mạnh mẽ tái cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh giản, hiệu quả với việc sáp nhập, hợp nhất một số bộ, ngành và cơ quan ngang bộ nhằm giảm chồng chéo chức năng, nâng cao tính chuyên nghiệp và sự phối hợp liên ngành. Đồng thời, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan nhà nước giúp cải thiện thủ tục hành chính, tạo môi trường minh bạch, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp.

Nâng cao vị thế trên trường quốc tế

Việt Nam từ chỗ bị cấm vận, đã gia nhập Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) năm 1993; APEC năm 1998; ký Hiệp định thương mại với Mỹ năm 2000, gia nhập WTO năm 2007; và hiện nay đã tham gia hơn 17 hiệp định thương mại tự do với các nước trên thế giới.

Nhiều đánh giá tích cực từ các tổ chức tài chính quốc tế uy tín như WB, IMF và ADB đã thể hiện vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Theo WB, Việt Nam là một “câu chuyện phát triển đáng chú ý” khi đã vươn lên từ một quốc gia nghèo với thu nhập bình quân đầu người dưới 700 USD năm 1986, lên gần 4.500 USD vào năm 2023. WB cũng ghi nhận thành tựu lớn trong giảm nghèo và những tiềm năng to lớn trong phát triển kinh tế Việt Nam thời gian tới.

ADB cũng đưa ra những nhận định tích cực về Việt Nam với những dự báo tăng trưởng ổn định, trong đó ghi nhận vai trò chủ lực của xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và giải ngân đầu tư công. Nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định cùng thặng dư thương mại lớn (đạt 24,3 tỷ USD năm 2024) là yếu tố giúp Việt Nam duy trì sức hút với các nhà đầu tư quốc tế. IMF, trong báo cáo Article IV năm 2024 – 2025, cũng nhận định tích cực về kinh tế Việt Nam, đánh giá cao các nỗ lực ổn định tài chính, phục hồi xuất khẩu, du lịch và dòng vốn FDI.

Với mục tiêu phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 8% vào năm 2025 và tiếp tục duy trì mức tăng trưởng trên 10% trong các giai đoạn tiếp theo, Việt Nam thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh và tận dụng tối đa các cơ hội hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đầy tham vọng một cách bền vững và đáp ứng yêu cầu hội nhập xanh, các tổ chức quốc tế cho rằng, Việt Nam cần thực hiện đồng thời ba trụ cột: Cải cách thể chế – Thúc đẩy tăng trưởng xanh – Nâng cao năng suất lao động. Đây là con đường giúp Việt Nam không chỉ tăng trưởng nhanh, mà còn trở thành một nền kinh tế xanh, có sức chống chịu và thích ứng cao trong bối cảnh biến đổi toàn cầu.

Cụ thể, theo WB, Việt Nam cần quan tâm đến cải cách thể chế và năng lực thực thi chính sách, nâng cao hiệu quả quản trị công, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư công và quản lý đất đai – hai yếu tố then chốt ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững. WB cũng khuyến nghị đẩy mạnh tăng trưởng xanh và bao trùm, với các giải pháp cụ thể như áp dụng thuế carbon, thúc đẩy đầu tư năng lượng tái tạo, giảm phát thải từ sản xuất và giao thông.

Theo IMF, Việt Nam cần phát triển thị trường tài chính minh bạch, linh hoạt tỷ giá và kiểm soát lạm phát hiệu quả, đồng thời ưu tiên đầu tư vào giáo dục, chuyển đổi số và công nghệ cao để nâng cao năng suất lao động – yếu tố cốt lõi giúp Việt Nam tránh rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. IMF cũng khuyến khích Việt Nam xây dựng hệ thống thuế bền vững và chính sách tài khóa thân thiện với môi trường.

Theo ADB, để đạt mục tiêu tăng trưởng, Việt Nam nên tập trung vào cải thiện chất lượng hạ tầng, môi trường kinh doanh và nguồn nhân lực. Việt Nam cần thu hút dòng vốn tư nhân vào các lĩnh vực như hạ tầng giao thông xanh, đô thị thông minh và năng lượng sạch. ADB cũng khuyến khích Việt Nam thực hiện các cải cách thể chế để giảm rào cản hành chính, đơn giản hóa thủ tục đầu tư và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia.

 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN