Má tôi – người phụ nữ mà cả cuộc đời tôi luôn yêu thương về phẩm chất, lối sống và cũng là bài học, là tấm gương về nghị lực, sự thủy chung và bản tính tốt đẹp để mấy chị em tôi noi gương.

Hẻm cờ Tổ quốc mấy chị em tôi làm để má vui trong dịp 30.4 vừa qua ẢNH: TÁC GIẢ CUNG CẤP
Đáp lại mong muốn của má, mấy chị em tôi trang hoàng con hẻm nhỏ trước nhà bằng màu cờ rực rỡ. Thấy ánh mắt già nua của má nhìn hàng cờ rợp sắc đỏ trong hẻm nhỏ bay phấp phới, mấy chị em tôi biết má vui sướng vì xúc động.
Má thường hay kể cho mấy chị em tôi nghe về ông bà ngoại, về cậu Hai, cậu Ba. Hồi đó ông bà ngoại tôi nghèo khó và đông con. Má tôi, mấy dì và cậu sinh ra trong thời điểm đất nước chìm trong khói đạn chiến tranh. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cậu Hai, cậu Ba đã “xếp bút nghiên lên đường theo tiếng gọi của non sông”. Cậu Hai, cậu Ba đã anh dũng hy sinh trong một trận càn khi tuổi đời của các cậu chỉ vừa tròn mười tám, đôi mươi…
Mười ba tuổi (khi ông bà ngoại qua đời, mấy dì đi lấy chồng), má đã biết quảy gánh ra chợ bán gạo để kiếm tiền lời nuôi thân, nuôi cậu Sáu tôi (đang bệnh tật). Những lần ra chợ buôn bán bị giặc thả bom tưởng chết mười mươi nhưng ơn trời má vẫn bình an. Má kể, trời nhá nhem tối, nhìn thấy má từ xa quảy gánh về người lấm lem bùn đất, mấy dì và má ôm nhau khóc nức nở.

Má và chị Hai, chị Năm trong ngày 8.3 vừa qua ẢNH: TÁC GIẢ CUNG CẤP
Đầu những năm 1970, má gặp ba tôi rồi về chung sống với ba đến tận bây giờ. Ba tôi hồi đó cũng nghèo khó. Rồi mấy chị em tôi lần lượt chào đời. Má làm đủ mọi việc, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mong kiếm tiền để nuôi mấy chị em tôi ăn học nên người, từ bán mít, bắp nướng, bán vải, quần áo cho đến bán gạo, thịt heo…
Cuối những năm 1980, hợp tác xã nơi ba tôi làm thuê giải thể, thế là ba tôi thất nghiệp, mọi việc trong nhà một tay má cáng đáng mà không hề than vãn. Má thức dậy quảy gánh ra chợ từ khi gà gáy cho đến tối mịt mới về, mong làm sao kiếm chút tiền lời để “nuôi đủ 7 con với một chồng”.
Tính má thẳng ngay, thương người và không tham lam của ai từ đó đến giờ. Má kể, hồi còn đi buôn bán gạo với người ta ngoài chợ rồi sau đó má chuyển qua bán hàng thịt heo, có người bày cho má cách “buôn gian bán lận” để kiếm tiền lời nhiều hơn nhưng má nhất quyết không chịu vì lương tâm không cho phép. Vì tính thẳng ngay, không tham lam của má nên có người nói má “nghèo mà còn bày đặt”. Thế là má nghỉ ngang, không chịu buôn bán, làm ăn chung với người ta nữa. Má bắt đầu đi bán riêng từ dạo đó.
Má hay nói với mấy chị em tôi: “Mình buôn bán gian dối như vậy thì mang tội chết. Má nghĩ làm cái gì cũng phải nghĩ đến hậu quả, phước báu, để tích đức cho con cháu mai sau…”.
Tôi nhớ, những năm tháng má còn bán gạo ngoài chợ, mỗi buổi trưa tôi thường đạp xe ra chợ ngồi phụ má rồi chờ má về nhà ăn trưa. Má hay gọi nước chè nóng của thằng Tường. Má kể cho tôi nghe về hoàn cảnh nhà thằng Tường, nhà nó nghèo lắm, nó mồ côi cha, chỉ có mẹ, phải nghỉ học sớm, ra chợ để đi “đổi nước” cho người ta kiếm tiền về phụ mẹ. Vì thương hoàn cảnh nghèo khó của nó mà má thường hay kêu nước của nó để uống, có khi má cho thêm nó vài ba đồng, có khi lại cho nó túm gạo nấu cơm. Có lẽ vì vậy mà nó quý má tôi lắm, nó coi má tôi như người mẹ thứ 2 của mình. Mỗi khi nhà tôi có giỗ chạp hay tết nhất, nó hay ghé nhà tôi chơi.
Mấy năm trước, ở gần nhà có 3 mẹ con từ Quảng Nam tới thuê phòng trọ của người ta ở để đi bán vé số dạo. Có lẽ, thấy hoàn cảnh người ta nghèo khó, bất hạnh mà má thấu cảm, má xót thương. Má bảo với tôi má thương thằng câm, nó lang thang đi bán vé số từ sáng sớm tới chiều tối mới về. Má biết, ngày nào nó không bán được hết vé số là coi như ngày đó nó đói, không có tiền ăn cơm. Hễ thấy nó là má kêu lại mua giúp mấy tờ vé số rồi cho nó chút tiền… Nhà có cúng giỗ, má “canh me” cho bằng được cái giờ thằng câm đi bán vé số về ngang qua nhà là má gọi vào rồi đưa cho nó một bịch đồ ăn. Thằng câm không nói được nhưng nhìn cử chỉ tôi biết nó thương má tôi lắm.
Má thương người và hay giúp đỡ những người nghèo khó, dù những năm tháng thời bao cấp nhà tôi cũng thuộc diện “nghèo nhất nhì trong xã”. Hễ thấy người già, trẻ con lang thang đi ăn xin là má cứ gọi vào cho gạo rồi bới cơm cho họ ăn chứ “nhìn thấy họ tội nghiệp quá mà cầm lòng không đành”. Những năm 1980, 1990, khi nhà còn làm nông, tới ngày gặt lúa mấy chị em tôi lại ra đồng để phụ má. Mùa gặt có rất nhiều người nghèo khó, người lớn, người già và có cả trẻ em từ tận các vùng quê đi “mót lúa”, đi xin lúa. Hễ thấy người ta đi “mót lúa” là má kêu lại cho người ta. Tới giờ ăn cơm ngoài đồng má lại bảo họ tới ăn cơm trưa đỡ đói…
Má tôi là vậy, cả một đời má dù cuộc sống có lúc còn nghèo khó hay hôm nay đã có phần tươm tất, đủ đầy nhưng tình yêu quê hương xứ sở, sự thủy chung, yêu thương chồng con hết mực, lòng trắc ẩn, thương người và đặc biệt là bản tính thẳng ngay, không tham lam chưa bao giờ cạn vơi. Má chính là tấm gương sáng, là nghị lực và là phẩm chất cao đẹp để mấy chị em tôi noi theo. Má vẫn “sống đẹp” dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Nguồn: thanhnien.vn