Xây dựng mô hình chính quyền hai cấp (cấp tỉnh/thành phố và cấp xã/phường) là chủ trương lớn, xuyên suốt, đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hướng tới xây dựng chính quyền gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn và quan trọng hơn là mở rộng không gian phát triển, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên để mô hình này thực sự phát huy hiệu quả, yêu cầu tiên quyết là đội ngũ cán bộ – được ví như “tế bào” và hệ thống chính sách, pháp luật – được ví như “khung xương” của chính quyền hai cấp phải đáp ứng được những yêu cầu mới của thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Cán bộ cơ sở – Nhân tố then chốt quyết định thành công của chính quyền hai cấp
Ngày 1/7/2025 ghi dấu sự kiện quan trọng khi chính quyền địa phương 2 cấp chính thức đi vào vận hành trong cả nước tại 3.321 đơn vị hành chính cấp xã thuộc 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, mở ra một giai đoạn phát triển mới với kỳ vọng về một bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và gần dân hơn. Tuy nhiên việc chuyển đổi sang mô hình chính quyền hai cấp cũng đồng thời gây áp lực lớn lên đội ngũ cán bộ cấp xã/phường bởi một người phải làm nhiều việc, kiêm nhiệm nhiều chức danh trong khi địa bàn quản lý lại rộng lớn hơn, dân số đông hơn, khối lượng công việc nhiều hơn; yêu cầu trình độ năng lực, thái độ, trách nhiệm làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cũng phải cao hơn. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo bộ máy chính quyền vận hành thông suốt, hiệu quả và dần kiện toàn theo đúng tinh thần chính quyền phục vụ thì công tác nhân sự, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở giữ vai trò yếu tố cốt lõi và mang tính quyết định.
Tổng Bí thư Tô Lâm đọc Diễn văn tại Lễ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025)
Nếu coi hệ thống chính trị là một cơ thể sống thì đội ngũ cán bộ, công chức xã/phường chính là “tế bào” cơ bản quyết định sức khỏe của toàn bộ hệ thống. Đây là cấp gần gũi nhân dân nhất, là tuyến đầu tiếp xúc trực tiếp với người dân và giải quyết những nhu cầu, bức xúc cũng như mong muốn của họ. Chính vì vậy để đảm bảo chính quyền hai cấp vận hành trơn tru, hiệu quả; xây dựng thành công chính quyền cấp xã, phường gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân thì yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất là phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã/phường không chỉ có trình độ chuyên môn cao mà còn có bản lĩnh chính trị vững vàng; kỹ năng giao tiếp tốt; năng lực quản lý điều hành, năng lực xử lý tình huống nhanh nhạy, hiệu quả và đặc biệt là luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, “chú trọng và thực hành dân làm gốc.
Thực tiễn cho thấy nhiều vấn đề bức xúc của người dân (thủ tục hành chính, quản lý đất đai, an sinh xã hội, trật tự đô thị…) đều nảy sinh ngay tại cấp xã/phường. Nếu cán bộ cơ sở làm việc công tâm, khách quan, giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo sẽ tạo dựng được niềm tin vững vàng nơi người dân; ngược lại sự trì trệ, thiếu minh bạch, giải quyết các khiếu nại, tố cáo không thấu tình đạt lý dễ làm giảm sút lòng tin trong nhân dân, tạo “khoảng cách” giữa chính quyền và người dân cũng như gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước. Tóm lại đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở luôn là nhân tố then chốt quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng chính quyền địa phương hai cấp. Bộ máy chính quyền dù được tổ chức khoa học đến đâu cũng sẽ trở nên kém hiệu quả nếu đội ngũ vận hành thiếu tâm – tầm – tài; từ đó đặt ra bài toán phải cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức cơ sở đáp ứng yêu cầu triển khai chính quyền địa phương hai cấp, tạo đòn bẩy quan trọng để đưa đất nước chuyển mình phát triển trong giai đoạn mới.
Trong giai đoạn chuyển giao chính quyền hai cấp, cùng với yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở thì quan điểm “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” cũng cần được thấm nhuần sâu sắc hơn bao giờ hết. Cán bộ công chức phải chủ động đến với dân, gần dân, sát dân, nắm bắt đời sống thực tế và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người dân không chỉ qua các báo cáo, cuộc họp mà bằng chính việc đi sâu đi sát quần chúng, tận mắt chứng kiến, tận tai lắng nghe tại từng hộ gia đình, từng khu phố, thôn xóm. Điều này đòi hỏi sự thay đổi tư duy căn bản trong bộ máy hành chính nhà nước, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ – công chức cấp xã/phường, góp phần lan tỏa tinh thần phụng sự, trách nhiệm, tận tụy vì dân.
Người dân và cộng đồng doanh nghiệp mong muốn công cuộc sáp nhập, xây dựng bộ máy chính quyền hai cấp sẽ trở thành một cuộc cách mạng về tư duy và phong cách làm việc; phải chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy “quản lý” sang “phục vụ”. Mỗi cán bộ, công chức phải tự nhận thức rõ vai trò, nhiệm vụ của mình là người của dân, phục vụ nhân dân, là người kiến tạo phát triển chứ không phải chỉ là người quản lý hay ban phát. Bác Hồ từng căn dặn: “Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân; Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh….”. “Cán bộ phải thực sự gần dân, sát dân, lo tương, cà, mắm, muối cho dân. Còn một người dân Việt Nam còn đói rách, khổ cực thì Bác và Đảng còn đau thương….”. Đây không chỉ là lời nhắc nhở đạo đức mà còn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, là nguyên tắc hành động xuyên suốt cho đội ngũ cán bộ – công chức trong giai đoạn phát triển mới. Cán bộ phải phục vụ nhân dân một cách chân thành, luôn đặt lợi ích của dân lên hàng đầu, không phô trương hình thức, không chạy theo thành tích ảo tưởng hay những mục tiêu viễn vông. Không phải bằng cấp hay chức vụ mà chính sự chân thành, trách nhiệm và hiệu quả phục vụ nhân dân, xã hội mới là thước đo giá trị của người cán bộ cơ sở, giúp họ được dân yêu, dân quý, dân tin, từ đó trở thành chất xúc tác gắn kết giữa dân với Đảng và Nhà nước, giúp nhân dân ngày càng tin tưởng vào chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, việc lựa chọn đội ngũ cán bộ cơ sở và chính quyền hai cấp giữ vai trò vô cùng quan trọng. Để làm được điều này cần xây dựng quy trình tuyển chọn rõ ràng, công khai, minh bạch và quan trọng là cần phải đặt các tiêu chí thực chất lên hàng đầu, không nên chỉ nhìn vào bằng cấp hay khả năng hùng biện. Các tiêu chí then chốt cần xem xét bao gồm: phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống lành mạnh; năng lực lắng nghe và xây dựng sự đồng thuận trong cộng đồng; sự minh bạch khi đưa ra các quyết định; tinh thần phụng sự nhân dân, gần gũi, gắn bó với nhân dân; khả năng phản ứng linh hoạt trước các biến động bất ngờ. Từ nền tảng các tiêu chí này cũng đồng thời đặt ra những yêu cầu cụ thể cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ – công chức cơ sở cả về chiều sâu chuyên môn lẫn chiều rộng kỹ năng. Theo đó bên cạnh kiến thức về quản trị hành chính và pháp luật, cán bộ phải được rèn luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng đối thoại với người dân, đặc biệt trong những tình huống nhạy cảm; kỹ năng quản trị truyền thông để xử lý khủng hoảng thông tin; năng lực phản ứng trước phản biện xã hội và đặc biệt là tư duy cầu thị, tư duy “vì nhân dân phục vụ” thay vì “cai trị”. Mỗi cán bộ xã/phường không chỉ đại diện cho chính quyền mà còn là hình ảnh của Nhà nước trong mắt người dân; do đó mỗi hành vi, mỗi quyết định của họ đều phải được cân nhắc kỹ lưỡng, dựa trên lợi ích chung và sự đồng thuận xã hội. Để đảm bảo điều này cần chú trọng nâng cao năng lực, văn hóa công vụ cho đội ngũ cán bộ – công chức cơ sở, đồng thời xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả từ phía người dân để chính quyền luôn gần dân, phục vụ dân một cách tốt nhất, góp phần củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Sức mạnh đến từ chính sách nhất quán, pháp luật nghiêm minh
Nếu đội ngũ cán bộ – công chức được ví như “tế bào” thì hệ thống chủ trương, chính sách và pháp luật đóng vai trò “khung xương” của chính quyền hai cấp vì nó định hướng, cung cấp nền tảng pháp lý và quy định cách thức hoạt động của bộ máy nhà nước, giúp thực thi quyền lực một cách hiệu quả và có trách nhiệm. Do đó để chính quyền hai cấp vận hành hiệu quả cần xây dựng chính sách có tầm nhìn ít nhất 50 năm, tránh tình trạng “năm sau khác năm trước”, từ đó bảo đảm tính ổn định, minh bạch, lâu dài để doanh nghiệp và người dân yên tâm đầu tư phát triển. Đơn cử trong lĩnh vực đất đai, thay vì tận thu ngắn hạn gây bất ổn xã hội, chính sách phải coi đất đai là nguồn lực lâu dài, gắn với chiến lược phát triển bền vững. Thuế bất động sản có thể ổn định ở mức 2% trên doanh thu, hoặc 20% nếu doanh nghiệp chứng minh được lợi nhuận cùng chi phí đầu vào – đầu ra. Sự minh bạch, ổn định này giúp doanh nghiệp dễ dự toán, từ đó hạn chế được tình trạng lách luật và nuôi dưỡng nguồn thu bền vững cho ngân sách Nhà nước.
Riêng trong lĩnh vực thu hút đầu tư, nhất là thu hút đầu tư nước ngoài, sự minh bạch và ổn định trong chính sách là yếu tố quan trọng hàng đầu. Các nhà đầu tư thường e ngại trước sự thay đổi đột ngột của môi trường pháp lý; chính vì vậy một khung pháp luật rõ ràng, minh bạch và ổn định sẽ tạo ra môi trường kinh doanh an toàn, giảm thiểu rủi ro và mang lại lợi nhuận cũng như niềm tin cho nhà đầu tư. Đây cũng chính là chìa khóa để Việt Nam nâng cao hiệu quả thu hút dòng vốn quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh chính sách nhất quán, ổn định thì tư duy quản lý cũng cần phải đổi mới theo hướng hiện đại, không nên áp dụng phương pháp “không quản được thì cấm” vì đây là cách làm ngắn hạn, kìm hãm sự sáng tạo và phát triển của tổ chức cũng như cá nhân. Thay vào đó cần có các phương pháp quản lý linh hoạt, thích ứng, tập trung vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự đổi mới và phát triển bền vững.
Cùng với chính sách thì pháp luật cũng phải đạt được sự cân bằng, đồng bộ và nghiêm minh để vừa có thể kiểm soát, xử lý những hành vi tiêu cực vừa tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích và bảo vệ những điều tốt đẹp, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Để đạt được điều này, pháp luật cần đảm bảo tính chính xác, công bằng, minh bạch, dễ tiếp cận và có khả năng điều chỉnh linh hoạt trước những đổi thay, biến động của thực tiễn đời sống. Đồng thời cần chú trọng huy động sự tham gia của nhân dân vào quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tình hình mới.
Quyền lực vì dân mới là quyền lực bền vững nhất
Đổi mới chính quyền hai cấp không chỉ là yêu cầu khách quan của thời kỳ hội nhập mà còn là mệnh lệnh từ tương lai dân tộc để cùng nhau đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình phát triển, thịnh vượng và hùng cường của dân tộc Việt Nam.
Đến nay sau hơn 2 tháng triển khai, bộ máy chính quyền địa phương hai cấp bước đầu vận hành nhịp nhàng, thông suốt; đội ngũ cán bộ, công chức được bố trí hợp lý, khoa học; nền hành chính được chuyển từ quản lý sang phục vụ và kiến tạo phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả tích cực đạt được, vẫn còn những thách thức về phân quyền, giám sát và kiểm soát quyền lực, nếu không rạch ròi sẽ dễ dẫn đến chồng chéo, trùng lặp nhiệm vụ, bỏ sót chức năng và nghiêm trọng hơn là lạm quyền, tạo kẽ hở cho tham nhũng, tiêu cực. Để khắc phục, cần hoàn thiện thể chế, luật hóa nguyên tắc phân quyền, phân trách nhiệm giữa trung ương và địa phương; đồng thời thiết lập cơ chế giám sát độc lập, chặt chẽ, được thực thi thông qua: quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội; báo cáo giải trình bắt buộc và công khai; kênh phản biện độc lập với sự tham gia của chuyên gia ngoài Đảng; bảo vệ và phát huy vai trò giám sát của các cơ quan báo chí, xem báo chí là một kênh giám sát quyền lực hiệu quả.
Từ thực tiễn yêu cầu trên, một bài học kinh nghiệm cho cho công tác lựa chọn, đào tạo và bố trí cán bộ lãnh đạo cấp cao đã được đặt ra. Người đứng đầu bất kỳ cơ quan nào, đặc biệt là các cơ quan quyền lực nhà nước không chỉ cần phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, khả năng điều hành mà còn phải hiểu sâu nguyên tắc phân quyền lực cũng như cách thức tổ chức, vận hành thiết chế do mình phụ trách. Đặc biệt cán bộ lãnh đạo cần lưu ý nếu không rạch ròi giữa vai trò của lập pháp và hành pháp sẽ dễ dẫn đến những hệ lụy lâu dài, làm suy yếu cơ chế kiểm soát quyền lực, ảnh hưởng đến uy tín thể chế và niềm tin của nhân dân. Chính vì vậy việc bồi dưỡng lãnh đạo cấp cao cần coi trọng năng lực thể chế học, tư duy pháp quyền và kỹ năng điều hành đúng chuẩn mực quốc tế, không chỉ để bảo vệ uy tín cá nhân mà quan trọng hơn là để bảo đảm bộ máy nhà nước vận hành minh bạch, cân bằng và hiệu quả. Lịch sử đã minh chứng quyền lực chỉ tồn tại bền vững khi phục vụ lợi ích của nhân dân và nó cũng chỉ phát huy hiệu quả khi được đặt trong khuôn khổ giám sát của nhân dân và pháp luật. Đây chính là yếu tố then chốt để đảm bảo quyền lực nhà nước được sử dụng đúng đắn, công bằng và phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội. Mỗi cán bộ, từ cơ sở cho đến lãnh đạo cấp cao cần ý thức rõ dù mình có tài giỏi đến đâu mà xa rời dân, coi thường phản biện thì sớm muộn cũng sẽ đánh mất niềm tin và vị thế của mình trong lòng nhân dân và xã hội. Quyền lực chỉ là tạm thời còn niềm tin của dân mới là vĩnh cửu. Gần dân, sát dân, trọng dân, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu và không ngừng đổi mới, tự hoàn thiện để phục vụ người dân được tốt hơn không chỉ là khẩu hiệu mà phải trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của đội ngũ cán bộ – công chức nói riêng – toàn bộ hệ thống chính quyền nói chung. Có như vậy thì bộ máy chính quyền hai cấp mới thực sự trở thành điểm tựa vững chắc cho sự phát triển quốc gia bền vững và thịnh vượng..
Mới đây, lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 không chỉ là sự kiện trọng đại trong nước, mà còn thu hút sự quan tâm rộng rãi của truyền thông quốc tế. Nhiều tờ báo, hãng tin lớn đã phản ánh đậm nét về lễ diễu binh, diễu hành quy mô lớn tại Quảng trường Ba Đình, đồng thời nhấn mạnh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được sau 8 thập kỷ độc lập. Niềm tự hào Dân tộc luôn có sẵn và đầy ắp trong nhân dân. Việc khơi dậy niềm tự hào đó và hun đúc thành sức mạnh đoàn kết để chiến thắng kẻ thù và vượt mọi khó khăn, vươn mình bước vào kỷ nguyên mới là do tài đức của người Lãnh tụ, người đứng đầu Đảng – Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.
Nguồn: vccinews.vn