Đường lên di tích Pháo Đài trên Núi Sam (P.Vĩnh Tế, An Giang) hiện xe hơi chạy thẳng lên tới đỉnh núi. Ở đây có ngôi miếu thờ bệ đá sa thạch, là nơi ngự của tượng Bà Chúa Xứ ngày xưa. Phía bên dưới, gần tới cổng chùa Linh Sơn là ngôi miếu thờ cụ Nghè Trương Gia Mô.
Ngàn năm để hận khách anh hùng
Cách đây hơn nửa thế kỷ, nơi này còn rất hoang vu. Tác giả Nguyễn Văn Hầu trong quyển Nửa tháng trong miền Thất Sơn mô tả cảnh vật lúc đó như sau: Trên cao hết là Pháo Đài, một tòa nhà được xây bằng vôi, đá, vuông vức đặt trên lưng con sam. Đó là ngôi nhà bị bỏ hoang, nhiều vết đạn xuyên phá làm sụp đổ nhiều chỗ. Chung quanh cỏ dại mọc chằng chịt lấp cả lối đi. Đây là ngôi nhà của viên tham biện người Pháp tên là Doceuil, xây để nghỉ mát. Doceuil xây dựng ngôi này năm 1902 (tác giả Khuông Việt ghi năm 1896). Cũng tại nơi này ngày xưa có một sĩ phu yêu nước gieo mình tự vẫn. Đó là cụ Nghè Trương Gia Mô.

Miếu thờ cụ Nghè Trương Gia Mô
Ngôi miếu thờ cụ Nghè Trương Gia Mô ở phía bên trái đường lên chùa Linh Sơn nằm trên triền đá, xung quanh cây cối rậm rạp. Được xây cất năm 1994, ngôi miếu tuy nhỏ nhưng khang trang với mái cong lợp ngói xanh, đường lên miếu xây nhiều bậc thang. Trong miếu có bàn thờ, di ảnh, bài vị lớn làm bằng đá hoa cương ghi Trương Tiên Sanh, hai bên có câu đối của nhà thơ Đông Hồ: “Đành yên một giấc nghìn thu, Châu Đốc há rằng quê quán khách/Trót hẹn chiếc thân bốn bể, Việt Nam đâu cũng nước non nhà“.
Phía trước miếu là tấm bia “Kỷ niệm chí sĩ Trương Gia Mô” bằng đá cẩm thạch. Văn bia tóm tắt cuộc đời của cụ. Mở đầu là câu “Đầu thế kỷ 20 cây rừng và núi đá nơi đây đã chứng kiến giờ phút cuối cùng bi tráng của một người nặng lòng yêu nước thương dân”. Cuối bài văn bia chép câu đối của cụ Huỳnh Thúc Kháng: “Trống đánh ngược, kèn thổi xuôi, nước mất, nhà tan, trăm kế cũng thua cơ tạo hóa/Núi toan dời, thời không gặp, trời cao đất rộng, ngàn năm để hận khách anh hùng“.

Cổng chùa Linh Sơn trên Núi Sam
Ảnh: Hoàng Phương
Tác giả Nguyễn Nam trong quyển Cụ Nghè Trương Gia Mô cho biết cụ sinh năm 1866, quê ở Bình Dương, Gia Định, hiệu là Cúc Nông, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, nhưng cụ sinh tại làng Hương Điểm, Bến Tre. Tiền nhân họ Trương đã từ Hà Tiên chuyển ra Quảng Nghĩa rồi trở về Bình Dương. Cụ thuộc dòng dõi quan lại triều Nguyễn. Ông nội là Trương Thừa Huy từng làm quan tới chức Chiêm Sự thời Gia Long. Cha là Trương Gia Hội từng giữ nhiều chức quan thời Tự Đức như Tri huyện Trà Vinh, Tri phủ Hoằng Trị (Bến Tre) rồi đổi ra Hàm Thuận. Năm 1867 làm Giám sát ngự sử rồi Binh bộ lang trung. Năm 1875 được điều về làm Tuần vũ Thuận Khánh, thay cho Tuần vũ Lê Đình Tuấn có việc bất hòa với Pháp…
Mây nước chạnh đau lòng hậu bối
Trong loạt phóng sự 25 ngày đi tìm dấu người xưa trên tờ Nam Kỳ tuần báo (17.6.1943), tác giả Khuông Việt mô tả cụ Nghè Trương Gia Mô có dáng người thấp bé, nhưng rất khẳng khái, chọn điều tiết nghĩa. Thuở nhỏ, cha mất sớm, nhà nghèo, cụ phải đi làm công vặt phụ giúp mẹ. Bạn bè, người quen thấy vậy giúp tiền, nhưng cụ không nhận. Cụ rất chăm học và mê đọc sách.

Bia kỷ niệm trước ngôi miếu
Ảnh: Hoàng Phương
Năm 1892, đời vua Thành Thái, cụ ra kinh và được bổ dụng làm Thừa phái bộ Công. Nhân lúc Thượng thơ Nguyễn Trọng Hợp đi Pháp, cụ đã viết bản điều trần 5 điểm: Mở rộng trường học và dịch sách Tây, sách Tàu ra chữ quốc ngữ để mở mang dân trí. Chấn hưng công nghệ, thực nghiệp, khuyên dân hợp lực khai khẩn đất hoang để chữa bệnh nghèo trong dân. Trừ tệ tham quan ô lại, sàng lọc bọn vô dụng để giảm bớt khốn khổ cho dân. Lập nghị viện, mở báo quán để rộng đường ngôn luận. Thứ năm là chỉnh đốn hương tục, đẩy mạnh giáo hóa để cứu lấy phong tục… Nhưng Nguyễn Trọng Hợp cho rằng cụ là “kẻ thiếu niên hiếu sự” nên bác bỏ. Lúc ấy, cụ đã 26 tuổi.
Cụ lại xin được sung vào sứ bộ sang Pháp, nhưng cũng không được chấp thuận. Liên tiếp thất bại, cụ từ quan về làm dân thường, rồi vào Nam dạy học ở Tân An, sau đó ngao du khắp Nam kỳ lục tỉnh. Thời gian này, cụ tiếp xúc với nhiều nhân sĩ yêu nước.

Ngôi miếu thờ bệ đá sa thạch trên đỉnh Núi Sam
Ảnh: Hoàng Phương
Năm 1908, ở Trung kỳ nổ ra vụ đấu tranh chống sưu cao thuế nặng, được châm ngòi từ Đại Lộc (Quảng Nam). Hàng loạt nhân sĩ bị kết án, thực dân Pháp nghi ngờ cụ có tham gia “đảng sự” nên bắt giam vào ngục Khánh Hòa. Cuối năm 1909, được thả ra, cụ quay về nhà làm nghề thuốc chữa bệnh cho dân.
Theo tác giả Khuông Việt thì ý định quyên sinh của cụ Nghè đã có từ lâu qua câu thơ: “Sầu đong càng gạt càng đầy/Cũng muốn khuây mà khó nổi khuây”. Đêm mùng 2 tháng 11 năm Kỷ Tỵ 1929, sau bữa tiệc với dân làng, chờ mọi người ngủ say, cụ Nghè lên chóp Pháo Đài, ném cây đèn xuống chân tháp rồi gieo mình xuống vực sâu.

Cổng vào miếu thờ cụ Nghè Trương Gia Mô
Ảnh: Hoàng Phương
Báo Thần Chung ngày 13.12.1929 có bài tường thuật: “Có một ông lão ước chừng 70 tuổi, đầu đội nón kết, mặc toàn đồ trắng, đi giày hàm ếch nhung xanh, cách ăn mặc giống như người Trung kỳ. Ông nói đi Hà Tiên mới ghé lại đây chơi cho biết phong cảnh núi Sam. Được chừng 3 – 4 ngày sau, ông lên đây thơ thẩn một mình, bước lên cái thang của tháp núi cao 4 thước rồi mới té xuống. Dân làng xem xét trong mình ông không có giấy tờ gì hết. Chỉ có số tiền 11 đồng, 1 cắc. Dân mua quan tài tẩn liệm rồi an táng ông ở Núi Sam…”.
Ngày 28.12.1929, tờ Thần Chung đưa tin tiếp: “Nay nói rõ lại, cụ già ấy là Trương Gia Mô, tục gọi Nghè Mô ở Phan Rí… Cụ chết rất thảm thiết, không ai hay biết, nhờ người làng Vĩnh Tế xuất tiền chôn cất. Sau người nhà hay tin mới đem tiền vô trả lại cho làng và xây phần mộ cho cụ. Nghe đâu cụ vì buồn thế sự nên rắp tâm tự tử”.
Nguồn: thanhnien.vn