Kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn bản lề, làn sóng dịch chuyển chuỗi giá trị, bùng nổ kinh tế số, kinh tế xanh đang mở ra cả cơ hội lẫn thách thức. Dự báo đến năm 2025, quy mô GDP cả nước ước đạt 500 tỷ USD, gấp 64 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tăng lên mức trên 5.000 USD. Cùng với đó, kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng trưởng mạnh, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thương mại hàng đầu thế giới.
Tuy nhiên, theo GS.TS Hoàng Văn Cường – Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, bức tranh tươi sáng ấy vẫn ẩn chứa những mảng tối. Nền kinh tế chưa phát huy được nội lực thực chất khi xuất khẩu vẫn phụ thuộc nặng nề vào khu vực FDI, với giá trị gia tăng trong nước chỉ đạt 30 – 35%. Mô hình sản xuất dựa trên gia công, lắp ráp khiến năng suất lao động nằm trong nhóm thấp nhất thế giới. Nếu không có bước chuyển mạnh mẽ, nguy cơ mắc kẹt trong “bẫy thu nhập trung bình” sẽ hiện hữu ngay trước mắt.
Những rào cản cho doanh nghiệp
Theo GS.TS Hoàng Văn Cường, doanh nghiệp Việt Nam hiện đang đối mặt với những thách thức đa chiều, cả từ nội tại lẫn môi trường bên ngoài, khiến quá trình tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu trở nên khó khăn. Điểm yếu lớn nhất nằm ở năng lực nội sinh: Quy mô vốn hạn chế, công nghệ lạc hậu, trình độ quản trị còn thấp; vì vậy phần lớn doanh nghiệp khó có thể đáp ứng các yêu cầu khắt khe của những công đoạn có giá trị gia tăng cao, đòi hỏi công nghệ hiện đại, vốn đầu tư lớn và đội ngũ lao động kỹ thuật cao.
“Cùng với đó là chất lượng nguồn nhân lực, mặc dù có lực lượng lao động trẻ và dồi dào, nhưng trình độ chuyên môn, đặc biệt là kỹ thuật cao, vẫn còn hạn chế. Một trong 3 khâu đột phá chiến lược được đưa ra là đột phá về nguồn nhân lực chất lượng cao, để lao động có đủ trình độ đảm nhận những công việc ở các khâu then chốt’, ông Hoàng Văn Cường nhấn mạnh.
Bên cạnh những hạn chế nội tại của doanh nghiệp, GS.TS Hoàng Văn Cường cũng khuyến cáo một vấn đề nghiêm trọng khác: Chính sách thu hút FDI “bằng mọi giá”. Trong nhiều năm, Việt Nam ưu tiên giải quyết bài toán thiếu vốn và tạo việc làm cho lực lượng lao động dư thừa, nhưng lại thiếu các ràng buộc đủ mạnh để buộc nhà đầu tư nước ngoài phải mang theo công nghệ cao hay thực hiện chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước.
Hệ quả là liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp Việt trong chuỗi cung ứng thấp. Phần lớn doanh nghiệp trong nước chỉ tham gia vào những khâu phụ trợ, giá trị thấp. Điều này vô tình mở đường cho nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất thâm dụng lao động, tập trung vào gia công và lắp ráp – vốn không mang lại giá trị gia tăng cao. Trái ngược với Việt Nam, nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp cứng rắn hơn, buộc FDI phải thực hiện lộ trình nội địa hóa và chuyển giao công nghệ, tạo động lực nâng cao năng lực cho doanh nghiệp bản địa.
Ở khía cạnh cạnh tranh, GS.TS Hoàng Văn Cường cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa đủ sức mạnh để có thể đứng ngang hàng với các nhà đầu tư nước ngoài trong các liên doanh. Điểm yếu này càng trầm trọng hơn khi phần lớn doanh nghiệp trong nước có quy mô nhỏ, tiềm lực hạn chế và lại thiếu sự liên kết. Thay vì hợp tác để tạo ra sức mạnh cộng hưởng, nhiều doanh nghiệp lại cạnh tranh trực diện với nhau, dẫn đến tình trạng “tự làm suy yếu lẫn nhau”.
Hệ quả là doanh nghiệp Việt càng khó tích lũy đủ nguồn lực về vốn, công nghệ và nhân lực để tiến sâu vào những công đoạn đòi hỏi kỹ thuật cao trong chuỗi cung ứng toàn cầu hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng.
Về khía cạnh thị trường, TS.Nguyễn Văn Thân – Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chỉ ra, nhờ những ưu đãi thuế quan hay nhiều thuận lợi thương mại trong Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU, châu Âu là thị trường xuất khẩu tiềm năng khổng lồ của Việt Nam có giá trị cả nghìn tỷ USD, nhưng Việt Nam mới chỉ khai thác rất ít dung lượng của thị trường này. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp lại loay hoay tập trung vào thị trường Mỹ hoặc một số khu vực khác nhưng kết quả thu về rất hạn chế.
Về tài chính, ông Thân lưu ý rằng, mặc dù lãi suất đã được Ngân hàng Nhà nước giảm nhiều lần, nhưng trên thực tế doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn rất khó tiếp cận nguồn vốn vay tại các ngân hàng thương mại, do còn nhiều rào cản về thế chấp và thủ tục.
Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch Tập đoàn CMC, cảnh báo về một “cái bẫy” trong cách đo lường giá trị gia tăng bằng cách lấy ngành dệt may làm ví dụ: Nếu chỉ tập trung sản xuất nguyên phụ liệu nhằm nâng tỷ lệ hàm lượng nội địa trong chuỗi giá trị, doanh nghiệp có thể rơi vào vòng luẩn quẩn gia tăng tỷ lệ nội địa nhưng lại đối mặt với nguy cơ ô nhiễm môi trường, trong khi giá trị kinh tế mang lại không thực sự cao.
Cơ hội từ hội nhập, kinh tế xanh và kinh tế số
Mặc dù đối mặt với nhiều thách thức, Việt Nam vẫn có những cơ hội lớn từ hội nhập kinh tế sâu rộng và các xu hướng toàn cầu. Ông Đặng Hồng Anh, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam nhấn mạnh, trong tiến trình phát triển mới, khi kinh tế số và kinh tế xanh trở thành luật chơi toàn cầu, Việt Nam có cơ hội đón dòng vốn, công nghệ và tài năng.
“Cơ hội chỉ mỉm cười với những ai biết chuẩn bị: Kiên trì cải cách thể chế, đầu tư dài hạn cho khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, mở rộng hợp tác quốc tế và xây dựng thương hiệu quốc gia gắn với chất lượng, sự tin cậy”, ông Hồng Anh nhận định.
Ông Đặng Hồng Anh cho rằng quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp cần được kiến tạo như một “quan hệ đồng kiến tạo”. Nhà nước tạo sân chơi và luật chơi minh bạch, còn doanh nghiệp thì chủ động cạnh tranh, đổi mới để cùng nhau bảo vệ thị trường công bằng. Một trong những đề xuất nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ và chuyển đổi 5 triệu hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp – nguồn lực nội sinh khổng lồ đang chờ được khai phóng. Để hiện thực hóa, cần một mô hình hợp tác công – tư chặt chẽ: Nhà nước cần có cơ chế chính sách khuyến khích đủ mạnh, giúp hộ kinh doanh tự tin bước vào sân chơi doanh nghiệp. Đồng thời, cộng đồng doanh nhân trẻ cam kết tiên phong với sáng kiến “Mỗi doanh nhân trẻ dìu dắt hai doanh nhân mới”, tập trung chia sẻ kinh nghiệm quản trị, hỗ trợ định hướng chiến lược và giúp các doanh nghiệp trẻ phòng tránh rủi ro.
GS.TS Hoàng Văn Cường nhấn mạnh rằng, có hai con đường chính để giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Một là, nâng cao năng lực của doanh nghiệp về vốn, công nghệ và trình độ lao động để có đủ sức mạnh đảm nhận các khâu có giá trị gia tăng cao. Hai là làm chủ chuỗi giá trị mới, tạo ra những sản phẩm hoàn toàn mới, không phụ thuộc vào nhà đầu tư bên ngoài. Những lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ số, hay thiết bị tự động là những ví dụ điển hình.
TS.Nguyễn Văn Thân đề xuất, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường. Về chính sách thuế, với doanh nghiệp có doanh thu dưới 1 tỷ đồng, cần có cơ chế nộp thuế ưu đãi hơn. Về tiếp cận vốn, cần thay đổi tư duy: Coi tín chấp là chính, thế chấp chỉ là phụ, đồng thời cải thiện cơ chế bảo lãnh tín dụng để các quỹ thực sự có thể mở rộng dịch vụ cho vay. Song song đó, cần đổi mới mô hình cho vay, tận dụng các ngân hàng số và ứng dụng tài chính số để cấp vốn trực tiếp, nhanh chóng, chi phí thấp, tạo cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa,…
Nguồn: vccinews.vn