Những khai quật khảo cổ học cho thấy, Hoàng thành Thăng Long từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô đến nay đã bị chôn vùi ở độ sâu 3 mét. Đó là tổ tiên chúng ta ‘tự chôn vùi’ để chống ngập và đối phó với mực nước biển dâng đấy!
Hoàng Thành bị chôn vùi trong quá trình biển tiến
Trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn viết: “…Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời…”.
Lời đó của vua Lý Thái Tổ về Thăng Long – Hà Nội không sai. Vấn đề là thời đó mực nước biển vẫn đang lên nhưng không ai biết. Dù không biết, nhưng người xưa vẫn thích nghi được bằng cách nâng dần mặt bằng cao lên.
Những khai quật khảo cổ học cho thấy :
Ở độ sâu khoảng 1 mét trở lên: chủ yếu là các di tích có từ thế kỷ 19 – 20, gồm các hiện vật thời nhà Nguyễn cùng một số hiện vật thời Pháp thuộc xen trộn lẫn nhau.
Ở độ sâu từ 1 đến 2 mét: là tầng văn hóa thời Lê – Mạc nằm trong thời gian khoảng 4 thế kỷ (từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18), có pha trộn một ít di chỉ thời Lý – Trần và thời Nguyễn, tuy nhiên đó là hiện tượng thường thấy trong khảo cổ học.
Ở độ sâu từ 2 đến 3 mét: là tầng văn hóa Lý – Trần, kéo dài cũng 4 thế kỷ (từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14), đây là đặc trưng của văn hóa Thăng Long, giữa văn hóa thời Lý và văn hóa thời Trần được kết nối tương đồng chặt chẽ.
Ở độ sâu từ 3 đến 4 mét: là tầng văn hóa tạm gọi là văn hóa Đại La, có những di chỉ thuộc văn hóa thời Đường bên Trung Quốc, tương ứng với thời kỳ nước ta bị nhà Đường đô hộ.
Như vậy là, cách mặt đất hiện nay trên dưới 4 mét trở lên, chúng ta đã phát hiện được 4 tầng văn hóa. Tuy có đan xen nối tiếp, nhưng những công trình của thời kỳ sau xây chồng lên những công trình của thời kỳ trước, xưa nhất là thời kỳ Đại La và gần nhất là thời nhà Nguyễn.
Và như vậy cũng có thể nói, thành Đại La mà vua Lý Thái Tổ đến tiếp quản để xây dựng và phát triển nên Thăng Long – Hà Nội bây giờ, nay đã bị vùi sâu hơn 4 mét. Còn các phế tích của các cung điện nhà Lý thì đã nằm sâu 3 mét dưới mặt đất.

Chống ngập ở Hà Nội là vấn đề nan giải
ẢNH: TUẤN MINH
Dĩ nhiên đó là cách tính ước lệ dựa trên những khai quật một phần Hoàng thành tại 18 Hoàng Diệu. (Vấn đề này chúng tôi đã đề cập trong bài Vì sao Hoàng thành bị chôn vùi trong loạt bài Hoàng thành Thăng Long – quá khứ và tương lai đăng trên Báo Thanh Niên 15 năm trước).
Hoàng thành Thăng Long từ thời nhà Lý nay đã bị “chôn vùi” dưới độ sâu 3 mét có liên quan đến diện mạo đất nước thay đổi cùng với 4 lần biển thoái và 4 lần biển tiến trong thời kỳ địa chất đệ tứ của Việt Nam mà chúng tôi đã dẫn trong bài Câu chuyện thủy triều và tiến sĩ Hoàng Ngọc Kỷ (xem thêm: Hoàng Ngọc Kỷ, Địa chất và môi trường đệ tứ Việt Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 2010).
Theo đó thì giai đoạn biển tiến mới diễn ra trong khoảng 2.300 năm qua, nước biển đã dâng thêm 6 mét so với mực nước cực tiểu trước đó. Có thể ước tính thời Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long mực nước biển thấp hơn bây giờ khoảng gần 3 mét, tức là đã tăng thêm 3 mét so với giai đoạn cực tiểu trước đó. Con số này tương ứng với những khai quật khảo cổ học tại Hoàng thành.
Hệ thống hồ của Hà Nội do đâu mà có?
Chúng tôi cũng từng đề cập, nơi này được chọn làm kinh đô bắt đầu từ Lý Nam Đế, sau đó Cao Biền chiếm giữ. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước… Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng”.
Điều đó cho thấy, việc đắp đê bắt đầu từ thời Cao Biền. Đắp đê tất nhiên phải đào đất, điều này được Thiền Uyển tập anh giải thích: “Trước kia, Cao Biền xây thành ở Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt sông Điềm và những ao Phù Chẩn… đến 19 chỗ để trấn yểm”.
Dù trong quá trình biển tiến và Cao Biền bắt đầu đắp đê, nhưng Thăng Long – Hà Nội vào thời nhà Lý không gặp vấn đề gì lớn về lũ lụt. Do mực nước biển thấp nên đáy sông Hồng cũng thấp xa so với hiện tại, lũ lụt tuy có xảy ra nhưng tần suất thấp. Đọc lịch sử thời Lý ta ít thấy lũ lụt. Gần 100 năm sau khi dời đô đến Thăng Long, vua Lý Nhân Tông (năm 1107) mới cho đắp con đê đầu tiên – đê Cơ Xá.

Hồ Tây ở Hà Nội
ẢNH: ĐÌNH TRƯỜNG
Sang thời Trần, lũ lụt xuất hiện với tần số cao hơn. Vào thời Trần Thái Tông, năm 1236, lũ đã tràn vào cung Lệ Thiên. Năm 1238, lũ tràn vào cung Thưởng Xuân. Năm 1245, vỡ đê Thanh Đàm, “nước sông tràn ngập, rắn, cá chết nhiều”. Đến đời Trần Thánh Tông, năm 1265, vỡ đê Cơ Xá, “người và súc vật chết đuối nhiều”. Năm 1271, “nước to, các đường phố ở kinh đô phần nhiều phải đi lại bằng thuyền bè”…
Do đó, từ thời nhà Trần, việc đắp đê và hộ đê được chú trọng. Năm 1248, Trần Thái Tông đã đặt ra cơ quan Hà đê, có chánh, phó sứ. Hệ thống đê quai vạc được coi là bước ngoặt trong lịch sử thủy lợi Việt Nam, được bắt đầu đắp từ triều đại này. Ngoài việc đắp đê ngăn nước sông được mở rộng ra khắp các vùng đồng bằng, nhà Trần còn bắt đầu cho đắp đê ngăn nước mặn để bảo vệ mùa màng của dân.
Đến thời Lê – Nguyễn, hệ thống đê điều tiếp tục được mở rộng với chuẩn mới. Vua Lê Thánh Tôn đã chuẩn hóa những quy định về đê điều (Trong Bộ luật Hồng Đức có Luật Hồng Đức đê điều).
Đến Triều Nguyễn, nhà nước tiếp tục chuẩn hóa hệ thống đê điều và dùng kỹ thuật mới đã áp dụng trong Nam. Vào năm 1830, thời Minh Mệnh, tổng chiều dài hệ thống đê điều ở Bắc bộ đã lên tới 1.300 km, làm tiền đề cho việc củng cố và mở rộng hệ thống đê điều cho đến ngày nay.
Có thể nói, hệ thống đê điều, trong đó có đê điều bảo vệ Hà Nội, là công trình vật chất vĩ đại nhất mà tiền nhân để lại cho hậu thế, là kết quả của bao tâm sức, trách nhiệm và tài cán của nhiều thế hệ. Ngày nay, sự an nguy của thủ đô Hà nội trước thiên tai phụ thuộc rất lớn vào hệ thống đê điều được xây dựng từ ngàn năm trước.
Câu chuyện về Sơn Tinh “Càng dâng nước càng cao ngọn núi” (Tố Hữu) là một ẩn dụ nói về việc cha ông ta đối phó với nước biển dâng. “Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại” (Nguyễn Khoa Điềm), chính là ẩn dụ về việc cha ông ta đào hồ để lấy đất đắp đê và tôn mặt bằng của Hà Nội lên. Còn câu chuyện Cao Biền “trấn yểm 19 chỗ” thực chất cũng là việc đào đất đắp thành.
Bởi vậy, Hà Nội ngày nay mới có hàng ngàn hồ ao lớn nhỏ, trong đó có hơn 120 cái hồ lớn trong nội thành. Chúng đều là hồ nhân tạo. Hồ ao ở Hà Nội được tạo ra từ việc lấy đất nâng cao mặt bằng và đắp đê. Và hàng ngàn năm nay, chúng có nhiều công năng phục vụ sự sống của Hà Nội, trong đó có công năng điều tiết nước.
Nguồn: thanhnien.vn








