Tuesday, November 4, 2025

Đề án 1 triệu ha lúa – Doanh nghiệp với nút thắt vốn và cơ chế

Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long”  đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vừa tròn hai năm (Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27/11/2023). Tuy nhiên, dù các địa phương và doanh nghiệp đều bày tỏ sự quan tâm, đến nay vẫn chưa có dự án nào thực sự được triển khai. Dòng vốn và cơ chế vận hành vẫn là những điểm nghẽn lớn chưa được khơi thông. Các doanh nghiệp đầu chuỗi vẫn đứng ngoài cuộc, chưa phát huy vai trò kết nối; trong khi quyền lợi của nông dân lại đang bị “kẹt cứng” giữa chuỗi giá trị.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, chia sẻ về những “nút thắt” này và đề xuất các giải pháp cần thiết để Đề án sớm đi vào vận hành hiệu quả, thực chất.

Đề án 1 triệu ha lúa - Doanh nghiệp với nút thắt vốn và cơ chế

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An

Thưa ông, sau gần 2 năm Đề án được phê duyệt, thực tế triển khai tại các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ra sao?

Sau gần hai năm Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từ Trung ương đến địa phương trọng điểm như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Cần Thơ… đều thể hiện quyết tâm mạnh mẽ. Các hội nghị, tọa đàm, chương trình hành động từ Trung ương đến địa phương cũng được tổ chức liên tục nhằm cụ thể hóa mục tiêu của Đề án.

Ngay từ quý đầu năm 2024, diện tích đăng ký tham gia đã vượt mốc 1 triệu ha, cho thấy sự hưởng ứng rất cao từ các địa phương. Nhiều mô hình canh tác lúa giảm phát thải theo tiêu chí của Đề án đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) cùng các địa phương thực hiện thí điểm trong nhiều vụ liên tiếp, đạt kết quả rất khả quan: giảm chi phí đầu vào 10-15%, tăng năng suất 5-7%, nâng chất lượng hạt gạo và giảm phát thải khí nhà kính. Một số doanh nghiệp lớn như Tân Long, Lộc Trời, Trung An… cũng bày tỏ mong muốn hình thành chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ đạt chuẩn xanh và bền vững theo tiêu chí Đề án. Nhưng sau những bước khởi động rầm rộ, các mô hình mới dừng lại ở quy mô thí điểm, chưa có Dự án nào của doanh nghiệp, HTX được triển khai thực sự trên quy mô rộng.

 

Đề án 1 triệu ha lúa - Doanh nghiệp với nút thắt vốn và cơ chế

Về vai trò của địa phương và doanh nghiệp trong việc thúc đẩy liên kết chuỗi, ông đánh giá thế nào?

Các địa phương đã rất nỗ lực trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, phối hợp cùng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật với Trung tâm Khuyến nông quốc gia và doanh nghiệp, HTX để triển khai. Các tỉnh Cần Thơ, Đồng Tháp, Sóc Trăng vào cuộc sát sao nhằm đưa ra các cơ chế hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp tham gia. Tinh thần là có, quyết tâm cũng rõ, nhưng để chuyển từ tuyên bố sang hành động thực tế thì còn khoảng cách. Nguyên nhân chính là cơ chế, thủ tục phê duyệt dự án, phương án, hợp đồng… vẫn chung chung, khiến doanh nghiệp, HTX và nông dân dù muốn vào cuộc nhưng chưa thể triển khai.

Về phía doanh nghiệp, chúng tôi xác định vai trò đầu chuỗi nên không chỉ là người thu mua mà phải “cầm lái” cả chuỗi liên kết; từ khâu cung ứng vật tư đầu vụ, dịch vụ nông nghiệp, quy trình sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ. Nếu doanh nghiệp không tham gia sâu vào từng công đoạn, chuỗi sẽ đứt gãy, nông dân vẫn phải “tự trồng – tự bán” và ngành lúa, gạo sẽ mãi loay hoay với bài toán bấp bênh đầu ra. Bởi vậy, Trung An cùng nhiều doanh nghiệp khác luôn sẵn sàng đóng vai trò dẫn dắt, nhưng cần có một khung pháp lý để yên tâm đầu tư vốn tham gia chuỗi liên kết trong Đề án.

Riêng Trung An đã đăng ký 100.000 ha trong khuôn khổ Đề án, thực hiện trải rộng khắp ĐBSCL. Bước đầu, Công ty đã lập 02 Dự án gửi đến cơ quan chức năng cấp tỉnh, thành chờ phê duyệt: 15.000 ha tại TP. Cần Thơ và 20.000 ha ở tỉnh An Giang. Khi 02 Dự án này được phê duyệt Công ty sẽ triển khai thêm ở các địa phương khác cho đủ 100.000 đến năm 2030 như đã đăng ký tham gia thực hiện Đề án.

Vấn đề vốn đang là nút thắt lớn nhất, ông có thể chia sẻ chi tiết hơn?

Chính xác! Đây là “điểm nghẽn sinh tử” của Đề án 1 triệu ha lúa, và cũng là nỗi trăn trở lớn nhất của doanh nghiệp. Sau gần hai năm triển khai, doanh nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng dù ngân hàng đã sẵn sàng.

Vụ lúa Hè Thu năm 2025, Trung An cần khoảng 500-700 tỷ đồng để thu mua lúa trong giai đoạn cao điểm thu hoạch, nhưng vẫn phải tự xoay sở nguồn lực. Đây là thời điểm “vàng” để bảo đảm đầu ra cho nông dân, giữ ổn định giá lúa và thực hiện mục tiêu giảm phát thải. Tuy nhiên, với cơ chế và lộ trình phê duyệt hiện nay, việc vay – cho vay giữa doanh nghiệp và ngân hàng gần như không khả thi.

Trong khi đó, mùa vụ không chờ, lúa chín vẫn phải gặt, nông dân buộc phải bán cho thương lái, khiến toàn bộ chuỗi giá trị – từ giảm phát thải đến nâng chất lượng – bị đứt gãy ngay từ đầu vụ.

Những cánh đồng đáng lẽ phải trở thành “vùng xanh” trong Đề án lại tiếp tục canh tác theo phương thức cũ, bón phân – phun thuốc theo tập quán cũ, chỉ vì một chữ “vốn” chưa được khơi thông.

Đề án 1 triệu ha lúa là chủ trương đúng đắn và đầy nhân văn, mang lại sinh kế bền vững cho hàng triệu nông dân ĐBSCL, đồng thời là giải pháp chiến lược để ngành lúa gạo phát triển xanh và hội nhập sâu. Tuy nhiên, nếu vướng nút thắt vốn không được tháo gỡ kịp thời, chuỗi liên kết sẽ không thể hình thành, và Đề án sẽ chỉ dừng lại trên giấy, thay vì đi vào thực tiễn như kỳ vọng của Chính phủ và người dân.

Vậy theo ông, đâu là giải pháp để khơi thông dòng vốn, giúp doanh nghiệp đầu chuỗi triển khai Đề án hiệu quả?

Với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ với tinh thần “chỉ làm, không bàn lùi”, Bộ NN&MT đã phối hợp cùng ngành Ngân hàng tháo gỡ được điểm nghẽn lớn nhất của Đề án: vốn.

Hiện nay, nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại và vốn tín dụng xanh đã sẵn sàng cho doanh nghiệp, HTX và nông dân vay để tham gia Đề án. Ngành ngân hàng đã nhiều lần cử đoàn công tác xuống tận địa phương vùng Đề án để khảo sát, lắng nghe nhu cầu và tìm dự án tiềm năng. Tuy nhiên, “điều đau nhất” là đến nay chưa có bất kỳ dự án nào của doanh nghiệp hay HTX được UBND tỉnh, thành phố hoặc Bộ NN&MT phê duyệt.

Điều đó đồng nghĩa, nông dân – đối tượng trung tâm của Đề án – vẫn chưa có nơi để tham gia liên kết sản xuất ngay trên chính thửa ruộng của mình. Chúng ta đã có quy hoạch, quyết tâm, nguồn vốn, nhưng thiếu cơ chế vận hành phối hợp giữa các cơ quan quản lý, khiến nguồn vốn không thể nối vào chuỗi giá trị lúa gạo phát thải thấp.

Nếu dự án được phê duyệt và doanh nghiệp, HTX được vay kết hợp vốn tự có và vốn tín dụng, họ sẽ đủ năng lực để cung cấp vật tư đầu vụ, dịch vụ nông nghiệp cho nông dân; thu mua, chế biến, bảo quản lúa gạo theo tiêu chuẩn xanh, chất lượng cao và phát thải thấp.

Đến nay, mọi “khâu” trong chuỗi Đề án đều đã hội đủ, từ quy hoạch, kỹ thuật, thị trường đến nguồn vốn. Nút thắt tín dụng đã được ngân hàng tháo gỡ với cam kết đồng hành cùng doanh nghiệp và HTX. Nhưng để dòng vốn thực sự chảy, các dự án phải được UBND tỉnh, thành phê duyệt – đây là “mắt xích” quan trọng nhất trong chuỗi liên kết hiện nay. Không có phê duyệt, doanh nghiệp và HTX không có cơ sở pháp lý để đầu tư, ngân hàng không có cơ sở để cho vay, và nông dân không thể yên tâm gắn bó với mô hình.

Vì vậy, chúng tôi rất mong Chính phủ có chỉ đạo quyết liệt và UBND các tỉnh, thành sớm tháo nút thắt này để doanh nghiệp có thể yên tâm đầu tư, nông dân gắn bó lâu dài và Đề án 1 triệu ha lúa thực sự trở thành một chương trình kinh tế đột phá, hiệu quả và bền vững. Ngược lại nếu nút thắt “phê duyệt dự án” này không sớm được gỡ, nguy cơ Đề án rơi vào “vết xe cũ” của mô hình Cánh đồng lớn là hoàn toàn hiện hữu.

Đề án 1 triệu ha lúa - Doanh nghiệp với nút thắt vốn và cơ chế

Về chuẩn MRV và chứng chỉ “lúa phát thải thấp” đang triển khai ra sao?

Đây cũng là vấn đề quan trọng của Đề án! MRV – tức đo lường, báo cáo và xác minh phát thải – không chỉ là thủ tục kỹ thuật, mà là nền tảng để định lượng, chứng minh và thương mại hóa giá trị “giảm phát thải” trên từng ha lúa. Nếu không làm chuẩn ngay từ đầu, chúng ta sẽ rất khó tạo ra hệ sinh thái kinh tế carbon bền vững trong ngành lúa gạo.

Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) được Bộ NN và MT giao nhiệm vụ tổ chức hội viên tham gia thực hiện Đề án 1 triệu ha. VIETRISA đã chủ động phối hợp với Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) tại Việt Nam thực hiện Dự án Chuyển đổi chuỗi giá trị lúa gạo ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (TRVC), tài trợ bởi Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc (DFAT) rất thành công với 8 doanh nghiệp liên kết với HTX và nông dân canh tác hơn 3.000 ha lúa vụ Đông Xuân năm 2024-2025 đạt chuẩn phát thải thấp, Chứng chỉ “GạoViệt xanh phát thải thấp” ở Việt Nam chính thức ra đời và lô gạo 500 tấn gạo phát thải thấp đầu tiên của doanh nghiệp ở Việt Nam được Nhật Bản nhập khẩu tháng 6/2025.

Đề án 1 triệu ha lúa - Doanh nghiệp với nút thắt vốn và cơ chế

VIETRISA cùng các hội viên tiếp tục phối hợp với Bộ NN&MT và các tổ chức quốc tế để xây dựng khung MRV thống nhất và minh bạch, có khả năng đo đếm chính xác phát thải đến từng hộ nông dân, từng cánh đồng.

Toàn bộ dữ liệu từ nông dân và hợp tác xã được tổng hợp định kỳ, chuyển về hệ thống trung tâm kiểm định độc lập, đảm bảo độ tin cậy trước khi xem xét cấp tín chỉ carbon. Tuy nhiên, lộ trình cấp tín chỉ carbon hiện vẫn chậm và kéo dài, trong khi nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đều đã chủ động tham gia các hoạt động giảm phát thải. Điều này đòi hỏi các Bộ, ngành sớm ban hành cơ chế phân bổ quyền sở hữu và quyền bán tín chỉ carbon từ hoạt động trồng lúa – nhằm tạo động lực và chia sẻ lợi ích công bằng cho tất cả các chủ thể trong chuỗi.

Ngành hàng lúa gạo tuy được coi là “vùng trũng” so với các lĩnh vực khác về lợi nhuận và vốn đầu tư, nhưng lại giữ vai trò then chốt trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thích ứng biến đổi khí hậu và ổn định sinh kế cho khoảng 30 triệu nông dân.
Khi quyền và lợi ích được xác lập rõ ràng, tín chỉ carbon sẽ không còn là “khái niệm xa vời”, mà trở thành công cụ kinh tế thực thụ – vừa nâng giá trị hạt gạo Việt Nam, mở rộng xuất khẩu, thu hút dòng vốn xanh, vừa khơi thông điểm nghẽn vốn cho các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị lúa gạo.

Chỉ khi MRV được thực hiện nghiêm túc, dữ liệu minh bạch và lợi ích được phân bổ công bằng, Việt Nam mới có thể khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng gạo phát thải thấp toàn cầu – không chỉ là nhà sản xuất, mà là quốc gia tiên phong trong nông nghiệp xanh, có trách nhiệm và bền vững.

Ngoài vốn và chuẩn MRV, còn những điểm nghẽn nào khác?

Nút thắt của Đề án không chỉ nằm ở vốn hay kỹ thuật MRV, còn nằm ở cách tổ chức và phối hợp trong hệ thống. Cơ chế triển khai vẫn rườm rà, thủ tục hành chính phức tạp và thiếu thống nhất giữa các cấp, các ngành. Nhiều doanh nghiệp và hợp tác xã khi lập dự án đều phải đi qua hàng loạt khâu thẩm định, phê duyệt, xin ý kiến… mất rất nhiều thời gian, trong khi thời vụ sản xuất lại không chờ.

Một điểm yếu khác là sự phối hợp liên ngành chưa thực sự nhịp nhàng. Bộ NN&MT có vai trò trong chuyên môn và tiêu chuẩn kỹ thuật; Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm về vốn và cơ chế tín dụng; các địa phương lại là nơi trực tiếp tổ chức sản xuất. Nhưng các mắt xích này hiện chưa “ăn khớp”, nên doanh nghiệp đầu chuỗi gần như vẫn phải tự xoay sở, tự chịu rủi ro khi thu mua lúa.

Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn kỹ thuật và chứng nhận tín chỉ carbon vẫn chưa được thống nhất, khiến nhiều đơn vị loay hoay không biết phải làm theo quy trình nào, đo đếm ra sao, quyền sở hữu tín chỉ thuộc về ai. Nếu không làm rõ những điều này, sẽ rất khó để thu hút doanh nghiệp tham gia hoặc để dòng vốn quốc tế tin tưởng rót vào.

Trân trọng cảm ơn ông!

 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN