Sau gần 2 năm đứng lớp, cô Phan Phương Thảo, 25 tuổi, vẫn nhớ như in câu chuyện một học sinh luôn thu mình và ‘né’ giáo viên dù năng lực bản thân vẫn còn yếu hơn các bạn đồng trang lứa.
TRAO QUYỀN TỰ CHỦ, KHÔNG YÊU CẦU SỰ HOÀN HẢO
Cô Phan Phương Thảo kể trong khoảng 2 tháng đồng hành cùng HS nêu trên, cô tìm nhiều cách khác nhau song đều không hiệu quả. Đến buổi cuối cùng, cô hỏi thẳng HS về vấn đề này và HS cũng thừa nhận rằng biết trình độ của mình ở đâu, “song gia đình không chấp nhận việc bỏ tiền ra mà bạn không học được gì”. Khi đó, nữ GV chỉ có thể động viên, đồng thời hướng dẫn thêm cách học hiệu quả.

Sự quan tâm, chăm sóc của giáo viên sẽ tạo động lực để học sinh phấn đấu ẢNH: NHẬT THỊNH
“Sau hôm đó, bạn nhắn tin cho tôi thêm lần nữa. Lần này không phải về việc học mà về câu chuyện chọn khối xét tuyển, chọn trường ĐH. Bạn muốn nghe lời khuyên của tôi. Tôi ngồi cùng bạn 2 tiếng, nhắn tin qua Zalo. Khi kết thúc cuộc trò chuyện, bạn nói một điều mà tôi nghĩ cả quãng đời đi dạy sắp tới sẽ không quên: “Chưa có ai quan tâm và sẵn lòng giúp đỡ em như vậy””, cô Thảo kể.
Sau này, khi đã quen dần với công việc giảng dạy, cô Thảo nhận ra có rất nhiều HS khác cũng cô đơn, cần được nhận sự chăm sóc như thế. Có em sợ hãi, thu mình lại khi bị hỏi câu mình không biết. Có em tìm đáp án trên mạng vì không muốn bị xấu hổ trước bạn bè chung lớp. Có em thậm chí nhờ trí tuệ nhân tạo (AI) giải hộ chỉ vì muốn bài tập khi gửi lên là “tốt nhất, chỉn chu nhất”.
“Các hành vi nêu trên một phần bắt nguồn từ việc các em đang phải gánh vác việc học một mình. Phương pháp răn đe bằng nỗi sợ trong giáo dục cùng sự kỳ vọng cao từ gia đình cũng khiến nhiều HS buộc phải tìm cách làm hài lòng người GV”, cô Thảo nhận định.
Từ đó, một điều cô Thảo luôn làm khi bắt đầu lớp mới là đảm bảo HS biết rằng mình không yêu cầu sự hoàn hảo. Thay vào đó, cả cô và trò sẽ cùng thiết lập và thống nhất một quy tắc chung để áp dụng xuyên suốt khóa học. “Các em cảm thấy an toàn hơn khi biết tôi kỳ vọng điều gì từ các em, và biết mình có trách nhiệm phải làm gì. Trên hết, các em được phép sai lầm và được bảo mật thông tin cá nhân như điểm số”, cô Thảo kể.
“GV không thể quan tâm tới từng HS một, song bằng cách tôn trọng sự tự chủ của các em, tôn trọng các em như là một con người độc lập, hiểu rằng các em có những hoàn cảnh riêng nên không thể ép các em vào một khuôn khổ chung theo kỳ vọng của mình, đó chính là sự chăm sóc mà các em cần”, nữ GV nhấn mạnh.

PGS-TS Lê Văn Canh nhận định sự quan tâm, chăm sóc trong giáo dục là một hoạt động thiết yếu khi giảng dạy Ảnh: Vĩnh Khang
CHĂM SÓC NGƯỜI DẠY VÀ NGƯỜI HỌC
Câu chuyện của cô Phan Phương Thảo là một trong vô số hành động quan tâm, chăm sóc mà GV cả nước đang thực hiện trong những lớp học của mình, từ môi trường công lập đến tư thục.
Chia sẻ ở hội thảo quốc tế về Global South Studies (tạm dịch: Nghiên cứu về nam bán cầu) năm 2025 tổ chức hồi tháng 8 tại Hà Nội, PGS-TS Lê Văn Canh, nguyên giảng viên Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐH Quốc gia Hà Nội, nhận định sự quan tâm, chăm sóc trong giáo dục “là một khái niệm rất phức tạp”. Tuy nhiên, đây là một hoạt động thiết yếu khi giảng dạy, vượt xa cảm giác đồng cảm hay sự gắn kết cảm xúc.
Cũng theo thầy Canh, nhà giáo cần phải học cách yêu bản thân trước khi nghĩ đến việc yêu thương học trò, bởi yêu bản thân là nền tảng để yêu thương người khác. “Không ai sinh ra đã trở thành một GV biết quan tâm, chăm sóc người học. Chúng ta cần học hỏi và đều đang trong quá trình “trở thành” (becoming) GV biết quan tâm, dù cho bản thân dày dặn tới mức nào”, thầy Canh nêu quan điểm.
“Tôi cho rằng mục tiêu của giáo dục giờ đây nên là hạnh phúc của người học chứ không còn là tri thức nữa”, PGS-TS Lê Văn Canh nói. Theo thầy, giảng dạy là một nỗ lực ra quyết định phức tạp hình thành bởi sự thấu hiểu của GV với HS.
Sự chăm sóc cũng diễn ra ở cả môi trường cao học, theo tiến sĩ Nguyễn Thị Chi, giảng viên Trường ĐH Ngoại ngữ, ĐH Quốc gia Hà Nội. Cô Chi cho biết hiện nay ngày càng có nhiều người quan tâm đến sức khỏe tinh thần và hạnh phúc của các nghiên cứu sinh tiến sĩ – nhóm người học vốn được xem là phải tự mình xoay xở, tự mình vượt qua những thách thức, thế nên nhiều lúc không tránh khỏi cảm giác cô đơn.
Trình bày rõ hơn, cô Chi cho biết nghiên cứu sinh có thể nhận được sự hỗ trợ, thấu cảm từ giảng viên hướng dẫn; sự động viên của đồng nghiệp; sự gắn kết từ bạn học. Đây được gọi là chăm sóc trong mối quan hệ (relational care). Song song đó, các nghiên cứu sinh còn có sự chăm sóc phi quan hệ (non-relational care), tức tự chăm sóc mình và nhận được sự chăm sóc từ cơ sở giáo dục ĐH.

GS-TS Bùi Thị Minh Hồng cho hay để giúp học sinh phát triển, các thầy cô nên định hướng các em chuyển từ cạnh tranh giành tài nguyên sang hợp tác vì mục tiêu chung, nhằm giúp học sinh có động lực tìm điểm mạnh của nhau và học hỏi lẫn nhau Ảnh: Vĩnh Khang
Giáo dục TRONG THẾ GIỚI “TUNA“
Sự chăm sóc, quan tâm lẫn nhau cũng nên được mở rộng ra với nhóm SV quốc tế, theo GS-TS Trần Thị Lý, công tác ở khoa Giáo dục, ĐH Deakin (Úc). GS Lý hiện đang kêu gọi các cơ sở giáo dục, nhà hoạch định chính sách xây dựng một lộ trình chăm sóc SV quốc tế có trách nhiệm, trong bối cảnh nhiều nước đang có những thay đổi chính sách khiến các người học nước ngoài không tránh khỏi bất an.
“Giáo dục không phải là thị trường hay là đấu trường chính trị, mà đó là không gian của sự quan tâm, chăm sóc, nơi nuôi dưỡng đời sống và cả khát vọng của con người”, GS Lý nhấn mạnh.
Trong khi đó, GS-TS Bùi Thị Minh Hồng, Giám đốc quản lý giáo dục ở Trường ĐH VinUni (Hà Nội), cho rằng sau “VUCA” (biến động, bất định, phức tạp, mơ hồ), thế giới đang tiến vào thời đại “TUNA” – hỗn loạn (turbulent), khó đoán (unpredictable), mới lạ (novel), tham vọng (ambitious). Nhận định này đã được GS Hồng đúc kết dựa trên bối cảnh chung của thế giới và của riêng VN, cũng như từ thực tế phát triển khoa học, công nghệ hiện nay.
“Điều này đặt ra cả thách thức và cơ hội, yêu cầu các nhà giáo dục phải hướng dẫn HS trở nên kiên cường và có khả năng phục hồi tốt hơn”, cô Hồng nhận định.
Cũng theo GS Hồng, để giúp HS phát triển, các thầy cô nên định hướng các em chuyển từ cạnh tranh giành tài nguyên sang hợp tác vì mục tiêu chung, nhằm giúp HS có động lực tìm điểm mạnh của nhau và học hỏi lẫn nhau, thay vì chỉ săm soi điểm yếu của người khác. “Hợp tác còn thúc đẩy bình đẳng và hòa nhập, tạo cơ hội để chúng ta cùng giải quyết những thách thức lớn hơn mang tính toàn cầu”, GS Hồng chia sẻ.
Nguồn: thanhnien.vn







