Các khảo sát quốc tế gần đây cho thấy một thực tế bất ngờ: giáo viên – những người tưởng chừng ‘có 3 tháng nghỉ hè’ – lại nằm trong nhóm nghề có áp lực cao nhất.
NGHỀ GIÁO NẶNG VỀ CẢM XÚC
Bác sĩ là nghề chịu trách nhiệm cao nhất về sinh mạng; mỗi quyết định sai có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Ca trực xuyên đêm, phòng cấp cứu áp lực, bệnh nhân đông, kiện tụng nghề nghiệp, áp lực từ người nhà bệnh nhân… Tất cả khiến nghề y luôn nằm tốp căng thẳng. Kỹ sư, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, năng lượng hay công nghệ thông tin, cũng chịu áp lực không nhỏ: một sai lầm có thể gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp hoặc làm ngưng trệ cả hệ thống.
Tuy nhiên, bác sĩ và kỹ sư đều làm việc trong môi trường có quy trình chuyên nghiệp, phân tầng trách nhiệm rõ ràng. Một ca bệnh có hội đồng hội chẩn, một dự án kỹ thuật có quy trình kiểm thử, giúp giảm phần nào gánh nặng tâm lý.

Mỗi lớp có tới 40 – 50 học sinh, giáo viên vừa dạy học, vừa quản lý hành vi, ổn định tâm lý học sinh…
ẢNH MINH HỌA: NHẬT THỊNH
Trái lại, giáo viên (GV) làm việc trong môi trường đầy biến số: lớp học 30-45 học sinh (HS), mỗi em một tính cách; kỳ vọng từ phụ huynh; áp lực thành tích; quy định hành chính thay đổi liên tục; cùng vô số tình huống phát sinh hằng ngày mà không có “quy trình chuẩn” để xử lý. GV không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn quản lý hành vi, ổn định tâm lý HS, giải quyết xung đột, tư vấn hướng nghiệp, hỗ trợ HS đặc biệt, đồng thời liên tục học thêm về chuyên môn, công nghệ, phương pháp và đánh giá để theo kịp sự thay đổi của chương trình và môi trường giáo dục.
Nếu bác sĩ đối diện với áp lực “cấp cứu sinh mạng” thì GV đối diện với “cấp cứu cảm xúc”, “cấp cứu hành vi”, “cấp cứu mối quan hệ”, và điều này diễn ra từng ngày, trong từng tiết dạy.
ÁP LỰC VÔ HÌNH: PHẦN CHÌM CỦA TẢNG BĂNG TRONG NGHỀ GIÁO
Trong khi nhiều nghề, nhân viên chỉ làm việc trong giờ hành chính thì GV mang công việc về nhà: soạn bài, chấm bài, làm hồ sơ, viết nhận xét, trả lời tin nhắn phụ huynh, học bồi dưỡng.
Báo cáo của OECD về những chính sách định hình cách GV sử dụng thời gian (Policies that shape teachers’ use of time) trong khảo sát quốc tế về dạy và học (Teaching and Learning International Survey – TALIS) TALIS 2018 cho thấy: có 25% GV trung học cơ sở (ISCED 2) làm việc từ 50 – 55 giờ/tuần, vượt xa chuẩn lao động thông thường (dưới 40 giờ/tuần).
Áp lực mà GV phải chịu còn đến từ yếu tố cảm xúc. Khi HS gặp khó khăn tâm lý, phụ huynh quá kỳ vọng hoặc bất hợp tác, khi một sự cố bất ngờ trong lớp xảy ra, GV luôn là người đầu tiên phải “xử lý khủng hoảng”. Tình trạng bạo lực, bắt nạt học đường gia tăng, cả trong môi trường thực và môi trường ảo, xu hướng kỷ luật HS giảm hình phạt, tăng tính nhân văn khiến áp lực xã hội – cảm xúc (social-emotional) càng bào mòn sức lực tinh thần của GV.
Khảo sát TALIS 2024 của OECD cho thấy: 40 – 52% GV bị quá tải công việc; 40% căng thẳng vì khối lượng chấm bài lớn; 52% kiệt sức bởi nhiệm vụ hành chính; 39% gặp khó khăn khi thích ứng với thay đổi chương trình và chính sách; và 45% chịu áp lực vì bị đánh giá dựa trên kết quả HS.
Những con số này cho thấy GV đang gánh nhiều yêu cầu vượt quá khả năng chịu đựng, khiến nghề trở nên đặc biệt dễ kiệt sức, cao hơn nhiều ngành nghề đòi hỏi trình độ tương đương.
Nếu nhìn bề ngoài, nghề giáo ở VN vẫn gắn với hình ảnh “3 tháng nghỉ hè”, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược. Khảo sát do Viện Phát triển chính sách ĐH Quốc gia TP.HCM thực hiện giai đoạn tháng 9 – 10.2024 tại Tây Ninh, Bình Thuận, Hậu Giang (cũ) cho thấy 71,83% trong tổng số 12.505 GV được hỏi cảm thấy quá tải.
Đã đến lúc nhìn nhận đúng về nghề giáo
Những bằng chứng khảo sát quốc tế và ở VN cho thấy GV đang đối diện mức độ căng thẳng nên cần được đánh giá đúng về lao động và giá trị. Để GV đứng vững và phát triển lâu dài, cần một hệ thống chính sách hỗ trợ toàn diện, không chỉ dựa vào tri ân tinh thần.
Trước hết, cần giảm tải công việc hành chính: Tối ưu quy trình, áp dụng công nghệ số, phân công hỗ trợ hành chính giúp GV tập trung giảng dạy và giáo dục HS.
Kế đến, xây dựng môi trường tâm lý an toàn: GV cần cảm thấy được tôn trọng, tiếng nói được lắng nghe, có không gian thử nghiệm phương pháp dạy học mới mà không sợ bị phê phán, cùng cơ chế phản hồi tích cực và quản lý lớp hiệu quả.
Thứ ba, hỗ trợ công nghệ: Hạ tầng, phần mềm và hướng dẫn sử dụng giúp giảm thời gian chuẩn bị, nâng cao hiệu quả giảng dạy, giảm căng thẳng.
Thứ tư, hướng dẫn về giải quyết tình huống sư phạm: Giúp GV xử lý tình huống khó khăn, giảm xung đột với HS và biết cách bảo vệ bản thân.
Cuối cùng và quan trọng nhất, đó là có chính sách đãi ngộ thực chất, tương xứng: Từ lương, phụ cấp đến cơ hội thăng tiến, giữ chân GV kinh nghiệm và khuyến khích gắn bó lâu dài. Những chính sách này phải thực chất, minh bạch theo đúng tinh thần xuyên suốt của Đảng và Nhà nước thể hiện ở Nghị quyết số 29 và Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị và luật Nhà giáo, được Quốc hội thông qua ngày 16.6.2025 và có hiệu lực từ ngày 1.1.2026.
Chỉ khi những yếu tố này được bảo đảm, giáo dục VN mới thực sự phát triển bền vững và GV mới có thể đứng vững, phát huy hết năng lực và tâm huyết của mình.
Mỗi tuần, GV phải dành hàng chục giờ cho soạn bài, chấm bài, theo dõi HS, xử lý sự cố trong lớp và hoàn thành yêu cầu hành chính. Áp lực từ phụ huynh, kỳ vọng thành tích của nhà trường cùng những thay đổi liên tục của chương trình và sách giáo khoa khiến họ luôn trong trạng thái “chạy nước rút”, không có thời gian phục hồi.
Không chỉ quá tải về thời gian, GV còn phải chịu áp lực cảm xúc nặng nề. Khi HS gặp khó khăn tâm lý, xảy ra xung đột hay bạo lực học đường, GV luôn là người đầu tiên đứng ra “cấp cứu” và trấn an lớp học. Công việc hành chính như viết báo cáo, nhận xét HS, trả lời tin nhắn phụ huynh liên tục bào mòn sức lực tinh thần, khiến nghề giáo trở thành một trong những nghề dễ kiệt sức nhất. Trong bối cảnh bạo lực học đường gia tăng, kỷ luật HS lại chuyển theo hướng nhân văn, giảm hình phạt và tăng tư vấn hỗ trợ, gánh nặng cảm xúc của GV lại lớn hơn.

Giáo viên đang đối diện mức độ căng thẳng nên cần được đánh giá đúng về lao động và giá trị
Ảnh minh họa: Đào Ngọc Thạch
Hệ quả là tỷ lệ bỏ nghề gia tăng. Theo Bộ GD-ĐT, năm học 2022-2023 có khoảng 9.300 GV bỏ nghề; giai đoạn 2020 – 2023, con số này vượt 40.000. Thu nhập chưa tương xứng, áp lực nặng nề và chế độ đãi ngộ hạn chế khiến nhiều GV trẻ thiếu động lực gắn bó lâu dài.
Tình trạng thiếu GV vì thế trở nên trầm trọng. Toàn quốc hiện thiếu khoảng 118.000 – 120.000 GV ở tất cả các cấp. Tại nhiều vùng khó khăn, GV phải đứng lớp vượt chuẩn, dẫn tới vòng luẩn quẩn: áp lực – kiệt sức – bỏ nghề. Khi mỗi lớp có tới 40 – 50 HS, GV vừa dạy học, vừa quản lý hành vi, ổn định tâm lý, vừa lo hồ sơ và đánh giá theo quy định, áp lực kéo dài suốt năm học.
Những con số trên cho thấy GV VN đang chịu một dạng áp lực đa tầng, bền bỉ và đặc thù, phù hợp với xu hướng được phản ánh trong khảo sát TALIS 2024: căng thẳng không chỉ đến từ dạy học mà còn từ trách nhiệm cảm xúc, quan hệ và hành chính.
Nếu không có các chính sách mạnh mẽ về giảm tải, hỗ trợ tâm lý, cải thiện đãi ngộ và giữ chân đội ngũ giàu kinh nghiệm, tình trạng thiếu GV và áp lực nghề nghiệp sẽ tiếp tục lan rộng, đe dọa chất lượng giáo dục trong nhiều năm tới.
Nguồn: thanhnien.vn







