Friday, November 28, 2025

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

Tiên Sư cổ miếu được lập vào năm 1852, tọa lạc ở góc đường Hòa Bình – Trần Phú (P.Bạc Liêu, Cà Mau), là một trong những ngôi miếu lâu đời nhất ở vùng Bạc Liêu.

Thần đèn dời ngôi miếu

Theo lời truyền trong dân gian, ngày xưa, đây là ngôi miếu nhỏ thờ Tam giáo Tổ sư (Nho – Phật – Lão), nhưng người dân địa phương gọi là miếu Tiên Sư, miếu Tổ Sư và miếu Thầy. Hiện ngôi miếu đang được trùng tu, sửa chữa lớn.

Nhiều hoành phi, câu đối ở các hàng cột và bức liễn thờ Đức Tiên Sư trong chánh điện vẫn giữ nguyên; riêng các bài vị được di chuyển sang khu nhà tạm và thờ chung trên vài bàn thờ.

Ông Huỳnh Anh Tuấn, Trưởng ban trị sự, cho biết 3 năm trước ngôi miếu đã được sửa chữa, gia cố; tuy nhiên do nền miếu thấp, diện tích sân khá hẹp nên phải tính đến việc nâng lên và di dời. “Chúng tôi đang thuê “thần đèn” ở An Giang thi công, dự kiến nâng toàn bộ ngôi miếu lên cao 1,5 m và dời ra phía sau 2 m, đồng thời nâng cổng miếu lên cho tương xứng”, ông Tuấn cho hay.

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

Tiên Sư cổ miếu đang thi công sửa chữa ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

“Thần đèn” chuẩn bị nâng nền lên thêm 1,5 m ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Trước đây, trong gian chánh điện cổ miếu, bàn thờ chính thờ Đức Tiên Sư, hai bên tả hữu ban thì thờ các danh thần, danh tướng như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản… Ngoài ra còn có các bàn thờ những bậc tiền hiền có công khai khẩn, các vị tiền vãng chức sắc trong làng có công xây dựng các công trình phúc lợi tại địa phương.

Viết bảng hiệu ngôi miếu

Nguyễn Tri Phương (1800 – 1873) là một đại công thần triều Nguyễn. Năm 1835, ông nhận lệnh vua Minh Mạng vào Gia Định cùng tướng Trương Minh Giảng bình định các vùng mới khai hoang. Năm Canh Tý 1840, vua Thiệu Trị cử ông làm Tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Tại đây, ông dẹp tan các toán giặc cướp nước ngoài vào quấy phá, được cải bổ Tổng đốc Long Tường (Vĩnh Long và Định Tường) kiêm Khâm Sai quân thứ đại thần, hàm Tòng Hiệp Biện Đại học sĩ rồi được thưởng danh hiệu An Tây trí dũng tướng. Năm 1845, ông cùng với Doãn Uẩn đánh bại quân Xiêm La của tướng Bodin, bình định Cao Miên, ổn định hoàn toàn vùng biên giới Tây Nam, được thăng hàm Thị lang.

Dưới thời vua Tự Đức, năm 1847, Nguyễn Tri Phương được phong tước Tráng liệt bá. Năm 1850, ông được sung chức Khâm sai Tổng thống Quân vụ Đại thần kiêm Tổng đốc các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên. Năm Giáp Dần 1854, ông được thăng Điện hàm Đông các Đại học sĩ, rồi lãnh chức Kinh lược sứ Nam kỳ để thực hiện kế hoạch đồn điền.

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

Gian chánh điện đang sửa chữa ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

Bàn thờ được dời sang gian nhà tạm ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Thời bấy giờ, đồn điền là lực lượng bán quân sự làm nhiệm vụ khai hoang lập ấp, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Song song với việc dùng binh lính khai mở đồn điền, Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương còn cho tập trung dân lưu tán để an cư lạc nghiệp, tạo nên đời sống yên ổn cho người dân và việc quản lý cũng đi vào nền nếp. Ngoài ra triều đình còn khuyến khích các nhà hào phú hằng tâm hằng sản chiêu mộ dân ngoại tịch khai hoang lập ấp. Tại vùng Bạc Liêu, ông đã lập được nhiều đồn điền, về sau thành các làng Vĩnh Thạnh, Mỹ Thuận, Bình An, Hòa Thành, Phước Thạnh, Tân Long…

Theo Đại Nam thực lục, năm Tự Đức thứ 5 (1852), tình hình an ninh vùng Ba Thắc bất ổn, bọn đầu sỏ là Lâm Sâm cùng đồ đảng đến vài ngàn người nổi lên cướp bóc, giết người. Thự Phó quản cơ Nguyễn Văn Trang bị giặc cướp giết. Vua lệnh cho Nguyễn Tri Phương đem quân từ Vĩnh Tế về đến Ba Xuyên cùng với Phó lãnh binh Tôn Thất Nghị kéo quân sang đánh, thắng luôn mấy trận.

Tương truyền rằng, trong lúc hành quân, tiễu trừ loạn phỉ vùng Ba Thắc, Đại thần Nguyễn Tri Phương cho quân trú đóng trên một gò đất có ngôi miếu đã bị hư sập. Ông ra lệnh cho quân lính dùng cây lá và vật liệu để dựng lại, đồng thời tự tay viết bảng hiệu cho ngôi miếu là Tiên Sư Miếu và nhắc nhở người dân địa phương thờ cúng những người có công khai khẩn đất hoang, xây dựng làng xã. Cũng theo lời truyền khẩu dân gian, mấy năm sau, quan Kinh lược Nguyễn Tri Phương trở lại vùng này có ghé thăm ngôi miếu. Ông ra lệnh cho các quan làng ở địa phương cất thêm tiền sảnh và 2 chái hai bên để làm nơi dạy học.

Lễ đưa binh ông

Đầu thế kỷ 20, Tiên Sư miếu vẫn còn là ngôi miếu nhỏ, lợp lá, cột gỗ. Đến năm Tân Sửu 1901, ông Cao Minh Thạnh (1860 – 1919), cha của nhân sĩ Cao Triều Phát, đứng ra vận động thành lập Ban tế tự, vận động bà con trùng hưng Tiên Sư miếu bằng gạch ngói thay cho tre lá.

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

Bàn thờ và bài vị được dời sang gian nhà tạm ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Dấu ấn công thần Nguyễn Tri Phương ở Tiên Sư cổ miếu

Bài vị danh thần Nguyễn Tri Phương ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Đến năm 1964, ngôi miếu trở lại tên cũ là miếu Tiên Sư. Hằng năm, vào các ngày 17, 18, 19 tháng giêng, miếu Tiên Sư tổ chức cúng và làm lễ “Đưa binh ông”. Vào những ngày cuối tháng chạp, trước khi ăn tết, người ta thiết kế sẵn chiếc tàu dài khoảng 2 m đem về miếu trưng bày và chuẩn bị cho lễ đưa binh. Mô hình tàu giống chiếc tàu đánh cá thu nhỏ, có buồng lái, hầm chứa, hình nhân tài công…

Ngày 17 tháng giêng, sau khi cúng tế xong, khoảng 10 giờ sáng là bắt đầu nghi thức “xin số” dán lên thân tàu. Lễ đưa binh diễn ra vào sáng 19. Trên tàu bày các lễ vật như đầu heo, vịt luộc, muối, gạo… Đoàn đưa dùng xe chở chiếc tàu đi cặp đường mé sông qua các dãy phố. Nơi tàu của binh ông đi qua, bà con lập bàn hương án, đốt nhang, đốt muối, gạo… Khi xuống tới bến, người ta thuê chiếc tàu lớn đưa ra ngoài vàm, đợi nước ròng, thủy triều xuống thì thả tàu cúng trôi ra biển. Ngày lễ đưa binh ông, thả tàu có rất đông người tham dự. 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN