Không chỉ đề xuất áp dụng quy định chuẩn chung về trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn, nghiên cứu khoa học cho giảng viên công lập và tư thục, VN đang có nhiều chính sách về giáo dục mở ra nhiều cơ hội để trường ĐH tư thục phát triển, thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng công – tư.
TRƯỜNG TƯ NGÀN TỈ, QUY MÔ THUỘC TOP
Nếu như những năm trước đây, trường ĐH tư thục khó tuyển sinh, năm nào cũng trong tình trạng thiếu chỉ tiêu và thường là lựa chọn sau ĐH công lập thì khoảng 3 – 5 năm trở lại đây, một số trường tư thục có chuyển động tích cực trong tuyển sinh, đào tạo, doanh thu, học thuật…

Sinh viên một trường ĐH tư thục tại TP.HCM
ẢNH: CHIẾN THẮNG
Tính đến nay cả nước có 242 cơ sở giáo dục ĐH, trong đó 175 công lập và 67 tư thục. Theo số liệu thống kê của Báo Thanh Niên dựa vào thông tin công khai trên website của các trường, trong top 10 cơ sở giáo dục ĐH có quy mô đào tạo (ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ) lớn nhất cả nước tính đến năm học 2024 – 2025, có đến 4 trường ĐH tư thục. Đặc biệt một trường dẫn đầu cả nước về quy mô là Trường ĐH Văn Lang (55.702). 3 trường còn lại là Trường ĐH Nguyễn Tất Thành (38.314) đứng thứ 6; Trường ĐH Công nghệ TP.HCM (38.205) thứ 7 và ĐH Duy Tân (37.444) thứ 9.
Một số trường như Trường ĐH Cửu Long, Trường ĐH Nam Cần Thơ có quy mô trên 20.000 người học. Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng, Trường ĐH Đông Á quy mô trên 10.000 người học. Quy mô này vượt qua nhiều trường ĐH công lập khác.
Về tổng doanh thu, có 4 trường ĐH tư thục lọt vào top 10 trường có doanh thu ngàn tỉ và cao nhất cả nước. Trong đó, Trường ĐH FPT 4.400 tỉ đồng, Trường ĐH Văn Lang 2.603 tỉ đồng, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành 1.670 tỉ đồng, Trường ĐH Công nghệ TP.HCM 1.380 tỉ đồng.
Nhiều trường ĐH tư thục cũng có tên trong các bảng xếp hạng uy tín của khu vực và thế giới.
Việc đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư đội ngũ bằng các chính sách thu hút giảng viên trình độ cao, thay đổi chương trình đào tạo, kiểm định quốc tế… cũng đã được các trường đẩy mạnh, giúp vị thế của ĐH tư thục ngày nay khác hẳn so với 10 – 15 năm trở về trước.
TẬN DỤNG CƠ HỘI TỪ CHÍNH SÁCH
Tại diễn đàn về giáo dục ĐH tư thục được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 11.11 vừa qua, tiến sĩ Trần Việt Anh, Phó hiệu trưởng phụ trách Trường ĐH Hùng Vương, khẳng định VN đang có những chính sách thuận lợi cho giáo dục phát triển, đặc biệt là giáo dục ĐH tư thục.
“Bộ tứ” nghị quyết có tác động tới giáo dục ĐH VN được tiến sĩ Việt Anh đề cập gồm Nghị quyết số 57 (12.2024) về đột phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59 (1.2025) về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 68 (5.2025) về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 71 (8.2025) về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Hiện tượng “nhòe biên” cản trở ĐH tư thục phát triển
GS-TS Nguyễn Lộc, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục VN, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Bà Rịa-Vũng Tàu, cho rằng ĐH công lập và tư thục đang có hiện tượng “nhòe biên”, cản trở sự phát triển của ĐH tư thục.
Theo Giáo sư Lộc, “nhòe biên” là thuật ngữ được dùng để đề cập vùng biên giữa ĐH công lập và tư thục. Đó là ranh giới giữa khu vực công và tư, nơi mà “đường biên” chưa rõ ràng đang làm mờ đi vai trò, sứ mệnh và cơ chế tự chủ của các trường tư thục.
“Một trong những biểu hiện của “nhòe biên” là ngày nay trường công lập và tư thục thu học phí ngang nhau, trong khi trên thế giới, học phí trường công lập thường rất thấp. Nguyên nhân là chúng ta đang cho rằng trường ĐH công lập tự chủ chính là tự chủ về tài chính, khiến học phí công lập tăng lên. Hay đầu vào tuyển sinh tại nhiều ĐH công lập hạ thấp, hay là việc “đại trà hóa” giáo dục ĐH công lập qua hình thức phân hiệu ở địa phương… Nếu “nhòe biên” càng lớn thì càng khiến cho ĐH tư thục phát triển chậm hơn”, GS-TS Nguyễn Lộc cho hay.
“Luật Giáo dục, Giáo dục ĐH cũng đưa ra những chính sách ưu đãi về thuế, đất, tín dụng… để khuyến khích phát triển trường tư thục. Tất cả cho thấy giáo dục ĐH tư thục được xác định giữ vai trò then chốt, vừa là lực lượng bổ sung quan trọng, vừa là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển. Đồng thời khẳng định khu vực tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, tiên phong trong đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ và chuyển đổi số.
Đặc biệt 2 nghị quyết 68 và 71 không chỉ tạo ra tầm nhìn chiến lược mà còn đặt ra yêu cầu cấp thiết: các cơ sở giáo dục ĐH tư thục phải nhanh chóng chủ động, tận dụng cơ hội mới từ chính sách để khẳng định vị thế, sứ mệnh và đóng góp của mình”, tiến sĩ Trần Việt Anh nhận định.
ĐỀ XUẤT CÓ LUẬT GIÁO DỤC ĐH TƯ THỤC
Tuy nhiên, cũng tại diễn đàn nói trên, lãnh đạo nhiều trường ĐH tư thục tiếp tục nêu những vướng mắc trong thực tế và đề xuất giải pháp để ĐH tư thục có thể bình đẳng với ĐH công lập trong hệ thống giáo dục ĐH nói chung.
Luật sư Nguyễn Kim Dung, Giám đốc pháp chế và đối ngoại Trường ĐH Anh Quốc VN, cho rằng dù hệ thống ĐH tư thục tại VN đã hình thành từ chính sách xã hội hóa từ cuối thập niên 1990 nhưng khung pháp lý về hình thức đầu tư và quản trị vốn đầu tư, quản trị học thuật vẫn còn thiếu rõ ràng.

Việc đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư đội ngũ bằng các chính sách thu hút giảng viên trình độ cao, thay đổi chương trình đào tạo, kiểm định quốc tế… cũng đã được các trường ĐH tư đẩy mạnh
Ảnh: V.T
“Hiện nay trường tư thục đang áp dụng mô hình công ty và luật Doanh nghiệp. Chính vì thiếu khung pháp lý rõ ràng nên đã hạn chế vai trò và đóng góp của khu vực giáo dục ĐH tư thục vào hệ thống giáo dục quốc gia. Để giải quyết vấn đề này, VN nên có luật Giáo dục ĐH tư thục”, bà Dung đề xuất.
Theo bà Dung, một số nước trong khu vực ASEAN có luật Giáo dục ĐH tư thục, chẳng hạn như Malaysia. Trong luật này có đề cập mô hình quản trị tích hợp ABC (Academic – Business – Corporate Governance), quy định rõ quyền và trách nhiệm của nhà đầu tư, mô hình quản trị, trách nhiệm của hội đồng trường đối với học thuật… Singapore cũng áp dụng linh hoạt mô hình ABC nên hệ thống ĐH tư thục rất phát triển.
Cùng quan điểm, PGS-TS Đào Thị Thu Giang, Hiệu trưởng Trường ĐH Đại Nam, cho rằng cơ chế quản trị trường ĐH tư thục đang dựa trên mô hình “hội nghị nhà đầu tư”, “hội đồng trường”, hiệu trưởng và các ban, phòng chức năng vận hành gần giống một doanh nghiệp nên còn tồn tại mâu thuẫn lợi ích giữa chiến lược đầu tư để thực thi mục tiêu chất lượng và mục tiêu tài chính. “Hiện cơ chế trường tư thục đang thiếu vắng quy định thống nhất về chia sẻ lợi ích để cân bằng quyền lợi giữa nhà đầu tư, cổ đông và sự phát triển bền vững. Chính vì thế cần hoàn thiện hành lang pháp lý, làm rõ địa vị pháp lý và cơ chế quản trị của hệ thống ĐH tư thục”, PGS-TS Giang chia sẻ.
Về thực hiện chính sách, theo bà Giang, trên thực tế trường tư thục vẫn chưa được công nhận và đối xử công bằng trong các chính sách giáo dục, tài chính, tiếp cận các nguồn lực của nhà nước như trường ĐH công lập. “Chẳng hạn trường ĐH tư thục “không có cửa” tham gia các công trình khoa học cấp nhà nước hay chủ trì đề tài cấp bộ… Việc công nhận bình đẳng sẽ giúp thay đổi nhận thức xã hội, tạo điều kiện để các trường tư thục phát triển năng động và hội nhập”, bà Giang nhận định.
Nguồn: thanhnien.vn







