Trong khu xử của một kẻ sĩ, Chu Văn An thể hiện sự mực thước của người làm quan ăn lộc nước khi sống thanh liêm, trong sạch. Phan Huy Chú xếp ông vào danh sách “Nhà Nho đức nghiệp” và tôn vinh khí tiết kẻ sĩ của ông trong Lịch triều hiến chương loại chí: “Tính cứng cỏi sửa mình trong sạch, giữ vững tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách”.
Nhà Trần, kể từ đời vua Trần Dụ Tông về sau, trở nên suy yếu dần do vua hèn kém. Viết về thời trị vì của vua này, Việt sử diễn âm có đề cập Chu Văn An trong đoạn: “Dụ Tông từ lên trị vì/ Trong ngoài tin cậy một bề Trâu Canh/ Cho nên dâm loạn cung đình/ Chẳng nghe trực gián tôi lành Chu An/ Cho sớ thất trảm dâng lên/ Dìm lấy chẳng xét cho nên phải nghèo”. Thất trảm sớ được nói tới ở đây, chính là tờ sớ do Chu Văn An soạn dâng lên vua Trần Dụ Tông kiến nghị chém đầu 7 tên nịnh thần.


Tượng thầy Chu Văn An trong quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội) ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Để rõ hơn hành động của quan Tư nghiệp Quốc Tử Giám, nên xem Đại Việt sử ký toàn thư, có ghi: “Dụ Tông ham chơi bời lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ Tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là “Thất trảm sớ””.
Hành động dâng sớ kiến nghị chém nịnh thần của Chu Văn An, sử Việt cổ kim không ai làm được, thể hiện khí phách của ông không sợ cường quyền, lấy sự tồn vong, hưng thịnh của nước làm trọng. Trần Dụ Tông trị vì thời gian 1342 – 1369, sử cũ cho biết từ khi đổi niên hiệu Đại Trị (Mậu Tuất (1358) về sau) vua bỏ bê chính sự, chơi bời quá độ, thường đánh bạc, yến tiệc say khướt…
Cũng theo đà đó, vua gần gũi bọn tham quan ô lại a dua nịnh hót. Thế nên, lời nói phải trái tai chẳng dễ để vua nghe theo. Sử gia Ngô Sĩ Liên đã đúc kết cái họa mất ngôi của nhà Trần từ vua Trần Dụ Tông: “Vua biết tôn trọng thầy dạy, nhưng lại không bàn việc nước với thầy. Vì thế bậc hiền năng không nên để chỉ làm vì. Chu An đi rồi, không còn ai bảo ban vua đạo hay lẽ phải nữa. Đó thực là “không tin bậc nhân hiền thì nước trống rỗng như không có người” vậy”.
Còn Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, khi tiếng lòng chân thành, trăn trở về sự xuống dốc của triều vua mình phụng sự hết lòng không được hồi đáp, vốn là người cương trực, ngay thẳng, lại không vì chức quyền, lợi danh mà bị bó buộc, ông trút áo mão từ quan về Chí Linh ở ẩn. Mẫn Hiên thuyết loại cho biết nơi ông ở ẩn là núi Phượng Hoàng thuộc xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tục gọi núi Ngao, nay thuộc P.Chu Văn An, TP.Hải Phòng. Sau này, Tồn Am Bùi Huy Bích thời Hậu Lê dựng bia trên núi ghi lại sự nghiệp của ông.
Bậc hiền sĩ thanh cao, vua không bắt làm tôi được
Dù không nghe theo lời kiến nghị tha thiết của ông, nhưng vua Trần Dụ Tông vẫn biết giữ lễ, kính trọng nhà Nho đức độ của nước nhà, sai người mang áo đến ban cho ông, giao việc quan trọng cho ông, nhưng áo ông nhận rồi cho người khác, chức tước thì từ chối thẳng thừng. Sau này Trần Dụ Tông mất, xảy ra loạn Dương Nhật Lễ cướp ngôi, rồi tôn thất nhà Trần giành lại ngôi báu, Trần Nghệ Tông lên nắm quyền, có ý trọng dụng ông, nhưng phong chức tước gì ông cũng không nhận. Phong thái ấy, hợp với ý thơ Trần Nguyên Đán mừng ông khi làm quan Tư nghiệp, đại ý: “Nghiêu Thuấn chỉ là rũ áo để trị thiên hạ/ Khó bắt được Sào Phủ, Hứa Do làm bề tôi cho mình”.

Bộ Đại Việt sử ký toàn thư (bản dịch, in năm 1972) đề cập việc Chu Văn An dâng sớ xin chém nịnh thần ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
“Sự thanh tao thẳng thắn, nghiêm khắc và chính trực của Chu An nổi tiếng một thời, lẫm liệt đáng kính nể”, Hồ Nguyên Trừng đúc kết trong Nam Ông mộng lục. “Hãy lấy Văn Trinh mà nói, thờ vua tất thẳng thắn can ngăn, xuất xử thì làm theo nghĩa lý, đào tạo nhân tài thì công khanh đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì thiên tử cũng không thể bắt làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ”, Đại Việt sử ký toàn thư chép.
Những tư chất, hành động thể hiện tấm gương sáng ngời của kẻ ăn lộc nước có giá trị nêu gương, “tìm trong làng nho ở nước Việt ta, từ trước đến nay chỉ có mình ông, các ông khác thực không thể so sánh được”, Lịch triều hiến chương loại chí tổng kết.
Vẫn sách này khi đề cập các trước tác đã lưu ý, “ông có quyển Tiều Ẩn thi tập lưu hành ở đời”. Còn thống kê trong Lược truyện các tác gia Việt Nam (Trần Văn Giáp chủ biên, 1971), tác phẩm của ông gồm: Thất trảm sớ, Tiều Ẩn thi tập, Tiều Ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước, Chu Văn Trinh công thi tập… Dẫu thơ văn của ông mất mát đã nhiều, nhưng vẫn còn một số bài được ghi lại trong Hoàng Việt thi tuyển (Bùi Huy Bích), Toàn Việt thi lục (Lê Quý Đôn).
Xem qua một số bài thơ của ông, thấy rằng dẫu viết về cảnh vật, luân chuyển bốn mùa nhưng vẫn đan lồng trong đó tâm tư, tình cảm nặng lòng với đời sống, thế sự. Tỉ như bài Thôn Nam sơn tiểu khế (Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam) được Đỗ Trung Lai dịch: “Thân nhàn cũng giống áng mây trôi/ Gió đàn bên gối, buông thế thời/ Đã cách cõi người, gần cõi Phật/ Mà nghe oanh tưởng huyết oanh rơi”.
Nguồn: thanhnien.vn








