Trong bản in Lục Vân Tiên năm 1889, Trương Vĩnh Ký đã có lời về nghiệp văn chương của Nguyễn Đình Chiểu: “Sự nghiệp văn chương của cụ không đi ra ngoài mục đích “cải tạo quốc gia”, mục đích trị bệnh tinh thần, trị bệnh xác thịt của người đồng chủng. Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngũ hành gia huấn cùng các bài thi văn khác đều là sách để chữa bệnh tinh thần”.
Trong các tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu sáng tác, Lục Vân Tiên được biết đến nhiều khi không chỉ phản ánh tinh thần yêu nước, mà còn là đại diện tiêu biểu cho khí phách hào sảng của người dân đất Nam bộ “trọng nghĩa, khinh tài”. Tác phẩm được Dương Quảng Hàm trong Quốc văn trích diễm xếp vào thể loại luân lý tiểu thuyết để dạy đạo làm người, mà chủ ý truyện được cụ đồ Chiểu thể hiện rõ qua đôi câu “Trai thời trung hiếu làm đầu/Gái thời tiết hạnh làm câu sửa mình”. Truyện gồm 2.246 câu, chia làm 4 phần: Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga; Lục Vân Tiên gặp nạn; Kiều Nguyệt Nga bị đưa sang cống cho vua Phiên; Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga sum họp, theo tóm lược của Việt Nam thi văn hợp tuyển.

Tác phẩm Lục Vân Tiên, bản in năm 1956 ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Trong bản in năm 1864 tại Paris, Pháp với tựa đề Lục Vân Tiên: Truyện thơ dân gian An Nam, Gabriel Aubaret nhấn mạnh ảnh hưởng, tính lan truyền sâu rộng của tác phẩm Lục Vân Tiên đối với dân Lục tỉnh Nam kỳ khi viết “Truyện thơ Lục Vân Tiên được phổ biến rộng rãi trong nhân dân đến nỗi không có một người dân nào ở Nam kỳ, dù là ngư dân hay người lái đò, lại không ngâm nga một vài câu thơ trong lúc khua mái chèo”. Sức ảnh hưởng của Lục Vân Tiên vượt thời gian khi không chỉ phổ biến thời cụ đồ Chiểu còn sống, mà cả về sau này, còn được ghi nhận trong hồi ức chắt ngoại của cụ – bà Mai Huỳnh Hoa – nhớ lại trong bài Vài hồi ức về tác phẩm và cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu: “Chúng tôi nhớ thuở vừa lên bốn cũng đã biết “nói thơ Vân Tiên”. Chung quanh chúng tôi, trẻ nhỏ sau hồi chạy nhảy, lên nằm đưa võng cũng “nói thơ Vân Tiên”, rồi những đứa khác đua nhau hợp xướng vang cả xóm. Từ ông lão đến anh lực điền, sau khi xong công việc vườn tược đồng áng về nhà chờ bữa cơm chiều cũng “nói thơ Vân Tiên” cho con cháu nghe”.
Tính cách hào sảng, trượng nghĩa, phóng khoáng của Lục Vân Tiên chính là đại diện tiêu biểu cho căn tính Nam bộ “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. Theo bà Mai Huỳnh Hoa, “giới bình dân ở thôn quê còn đem Lục Vân Tiên làm “khuôn vàng thước ngọc” để răn mình và dạy dỗ con cháu trong cách xử thế”. Là một tác phẩm văn học từ sáng tác của cá nhân, nhưng Lục Vân Tiên không dừng lại ở phạm vi văn học mà còn lan tỏa, ảnh hưởng rộng rãi trong đời sống, văn hóa của nhân dân Nam bộ.
Chẳng những thế, ghi nhận trong nghiên cứu Nguyễn Đình Chiểu với văn hóa Việt Nam, từ tác phẩm gốc, về sau đã xuất hiện nhiều loại hình sáng tác phái sinh, phóng tác khác như Phú Vân Tiên, Thơ tuồng Lục Vân Tiên, Thơ Bùi Kiệm dặm, Vân Tiên phú… Trong các tài liệu lưu trữ được số hóa mà người viết tiếp cận, ghi nhận có Bài ca Lục Vân Tiên mới đặt (Nhà in Huỳnh Kim Danh, 1913), Vọng cổ Bạc Liêu: Nguyệt Nga Bùi Kiệm vấn đáp (Chợ Lớn, 1933) là một số ví dụ.
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm”
Ngoài Lục Vân Tiên có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, sự nghiệp văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu còn được ghi nhận với nhiều sáng tác khác được nhà thơ gửi gắm vào đó triết lý sống. Ngư tiều y thuật vấn đáp theo GS Lê Trí Viễn là tác phẩm có tinh thần yêu nước chủ đạo, đồng thời phổ biến tinh thần y học với phương châm giúp đời cứu người. Với Dương Từ Hà Mậu, Phan Văn Hùm xem đó là tác phẩm “văn chương chiến đấu để bênh vực đạo Nho”.

Cảnh Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga trong Lục Vân Tiên cổ tích truyện ẢNH: TRẦN ĐÌNH BA
Dù đôi mắt không thể nhìn thấy ánh sáng, nhưng đồ Chiểu luôn đồng hành cùng cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù xâm lược. Mỗi khi có chiến trận, đau xót cho những nghĩa sĩ hy sinh vì nước, ông làm văn tế lay động sâu sắc lòng người như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn, Điếu Trương Định, Điếu Phan Thanh Giản… Những bài văn tế này được GS Phan Ngọc ca ngợi trong tác phẩm Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới là “những bài văn tế của ông là những trang thiên cổ hùng văn mà mọi người đều phải thán phục”.
Đơn cử như với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, được nhà phê bình văn học Hoài Thanh trong tác phẩm Chuyện thơ… xem là một trong những bài văn hay nhất (tính đến thời điểm 1972) khi “trước đó chưa bao giờ có và sau đó đến mấy chục năm cũng chưa hề có trong văn thơ ta một cái nhìn yêu thương và kính phục như vậy đối với người nông dân”. Nhà phê bình đã rung cảm sâu sắc với sự chân chất của những con người quanh năm gắn bó bên ruộng đồng: Nhớ linh xưa/Côi cút làm ăn/Toan lo nghèo khó, nhưng khi quân thù tới, sẵn sàng gia nhập nghĩa binh đánh giặc cứu nước, chẳng quản hy sinh với khí phách phi thường: Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục/Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không/Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to/Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng bên cạnh những tác phẩm trên, đồ Chiểu còn soạn Tứ thư, Ngũ kinh, Ngũ hành gia huấn. Phan Văn Hùm trong tác phẩm Nỗi lòng đồ Chiểu bổ khuyết rằng ông soạn Tam thập lục nạn, Huê hiên mạch phú, Lư sơn mạch phú để dạy làm thuốc. Tuy nhiên, những tác phẩm này đã thất truyền. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, ông xứng đáng là một chiến sĩ tiêu biểu đất Nam kỳ Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà (bài Than đạo), xứng với lời thơ của Hải Ngô truy niệm khi ông mất: Gương trong, áo vải người quân tử/Vằng vặc muôn năm ánh sáng soi. Người đời sau như Nguyễn Liên Phong trong bài thơ truy niệm, đã tổng kết sự nghiệp của ông, có câu Vân Tiên dấu để văn tao nhã/Quốc ngữ in ra chúng chuộng vì; còn Đặng Thúc Liêng thì viết Văn nghĩa đủ an hồn chúng bạn/Thơ Tiên gồm dạy đạo tôi con.
Nguồn: thanhnien.vn








