Đại biểu Quốc hội Vũ Thị Lưu Mai (Hà Nội) phát biểu tại phiên thảo luận ở hội trường về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, chiều 27/7.

Dự án cấp bách "không còn cấp bách" chỉ sau 6 tháng

Quốc hội thảo luận về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.

Đề cập đến vấn đề phân cấp ngân sách, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai cho biết, Luật Đầu tư công 2019 đã được sửa đổi theo hướng đổi mới tăng cường phân cấp cho các địa phương. Hiện nay, từ phân cấp dự án đến phân bổ nguồn lực về căn bản đều giao cho các địa phương.

“Tuy nhiên, bên cạnh tất cả các địa phương thực hiện nghiêm túc, thì vẫn còn một số địa phương chưa thực hiện đúng quy trình, chưa tuân thủ đúng trật tự ưu tiên”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai nói.

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai dẫn ví dụ, vào tháng 2/2020 một số dự án về thứ tự phân bổ nguồn lực dự phòng vì xuất phát từ tính cấp bách, nhưng cũng chính các dự án đó chỉ sau 6 tháng khi xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn thì đã không còn là cấp bách.

“Điều này cho thấy, đôi khi việc xây dựng danh mục dự án không xuất phát từ nhu cầu thực tiễn mà xuất phát từ ý muốn chủ quan. Theo báo cáo của Chính phủ, có tổng số 3.476 dự án thuộc diện chuyển tiếp, nhưng trong số đó chỉ có 2.731 dự án có phương án bố trí, còn lại hơn 1.000 dự án chưa có phương án phân bổ cụ thể”, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai bày tỏ.

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai cho rằng, việc này có thể dẫn đến hệ lụy là sự lãng phí nguồn lực, dẫn đến kỷ luật tài chính chưa nghiêm, đặc biệt là tạo áp lực ngân sách cho giai đoạn tiếp theo khi có rất nhiều dự án mới được bổ sung.

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai đánh giá, thời gian qua Thủ tướng cũng đã kịp thời chấn chỉnh đối với một số địa phương, nhưng cũng hết sức phải lưu tâm. Bởi vốn đầu tư công cần được hiểu đó là tiền thuế của nhân dân, kể cả vốn đi vay thì người trả cũng là nhân dân. Đó không phải là sở hữu của bất kỳ một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.

Nhưng trong quá trình phân bổ nguồn lực lại có những cá nhân khi được giao nhiệm vụ phân bổ vốn đã tự cho mình cái gọi là “quyền ban phát”.  Và câu chuyện về cơ chế xin-cho không biết khi nào mới kết thúc.

Từ đó, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai kiến nghị, thứ nhất, cần đề cao hơn nữa tính công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện.

Thứ hai, bên cạnh việc động viên những địa phương thực hiện tốt thì cũng cần xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm đạo đức công vụ.

Dự án cấp bách "không còn cấp bách" chỉ sau 6 tháng

Đại biểu Vũ Thị Lưu Mai

Bàn về câu chuyện thể chế, và có hay không những sai phạm, hạn chế của hệ thống pháp luật đối với quán trình tổ chức thực hiện, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai cho biết, có câu chuyện gây rất nhiều tranh cãi, đó là khi đánh giá những hạn chế thì pháp luật bao giờ cũng là nguyên nhân đầu tiên.

Tại kỳ họp này, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai đã đọc rất kỹ các báo cáo của Chính phủ trình tại kỳ họp và xin trích dẫn một số điểm, như tại báo cáo số 231 có nêu pháp luật về kinh tế đầu tư tài chính chưa đồng bộ và kéo dài thời gian triển khai dự án.

Báo cáo số 243 có nêu, thể chế về việc đầu tư công có điều chỉnh nhưng chưa theo kịp thực tiễn. Báo cáo số 238 nêu như sau, pháp luật quy định cơ chế phối hợp trong đầu tư công chưa hiệu quả. Báo cáo số 221 nêu hệ thống pháp luật về định mức chế độ còn cồng kềnh, phức tạp.

Mặc dù với những hạn chế nêu trên, nhưng theo đại biểu Vũ Thị Lưu Mai thì hầu hết các báo cáo đều chưa chỉ ra được đó là ở điều khoản nào, nội dung gì.

Có một điểm nữa cũng khiến cho đại biểu Vũ Thị Lưu Mai băn khoăn, đó là cách đây một tuần Quốc hội xem xét chương trình xây dựng Luật Pháp lệnh, và khi đối chiếu với chương trình xây dựng luật thì hầu hết những vướng mắc nêu trên đều không được đề xuất phương án đưa và chương trình xây dựng luật. Trong lĩnh vực kinh tế chỉ có duy nhất có mảng bảo hiểm được đề xuất.

Từ đó, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai đề xuất hai vấn đề.

Thứ nhất, mong muốn Chính phủ rà soát tổng thể hệ thống pháp luật về kinh tế. Trong trường hợp có những hạn chế thì cần đề xuất phương án kịp thời sửa đổi. Còn trong trường hợp những hạn chế là do tổ chức thực hiện thì cũng cân nhắc để đánh giá, tránh gây ra những nghi ngại đối với hệ thống pháp luật.

Thứ hai, đối với hệ thống pháp luật là cơ quan lập pháp thì cũng cần kịp thời rà soát, điều chỉnh. Trong trường hợp Chính phủ đề xuất sửa đổi thì cũng kịp thời đưa vào chương trình và phối hợp để hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo thuận lợi cho Chính phủ trong quá trình tổ chức thực hiện sớm đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa hệ thống pháp luật. Và từ đó hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.