Âm Dương thần miếu là một trong những di tích xưa, tương truyền có từ thời vua Gia Long mới lên ngôi. Tuy nhiên, hiện nay các hiện vật liên quan đến ngôi miếu không còn nên rất khó truy nguyên nguồn gốc.
Ngôi miếu có diện tích khá khiêm tốn, tọa lạc trên đường Quang Trung, P.Tân Thành, Cà Mau, với nhiều tên gọi khác nhau, như: miếu Gia Long, miếu Quốc Công và Âm Dương thần. Bà Châu Kim Yến, người lo việc thắp hương, quét dọn, cho biết hồi xưa ngôi miếu nằm trong khuôn viên Trường tiểu học Quang Trung bên cạnh. Khi xây trường học, miếu được dời ra chỗ hiện nay.
Ở trước miếu có tấm biển đề Âm Dương thần. Bài vị trên bàn thờ chính cũng ghi Đại Nam Âm Dương Vị Tôn Thần. Hai bên cửa ra vào có câu đối viết bằng chữ quốc ngữ: “Một thuở thân đền non nước Việt/Ngàn thu danh rạng đất trời Nam”. Bên trong có bàn thờ Tả ban, Hữu ban và bàn thờ Tiền hiền tương tự nghi thức thờ cúng ở các đình làng.

Miếu Âm Dương thần Cà Mau
Tác giả Nghê Văn Lương trong Cà Mau xưa An Xuyên nay mô tả ngôi miếu này khá chi tiết: “Cái miếu nhỏ xưa gọi là miếu Gia Long, còn gọi miếu Quốc Công hoặc Âm Dương thần, diện tích khoảng 80 thước vuông. Miếu do vua Gia Long hạ chỉ lập ra để thờ các vị công thần. Trong miếu có một bàn thờ cũ kỹ, sơn son phết vàng, đã phai màu, trên để nhiều bài vị, lư hương và một cái hộp gỗ lớn bị mọt ăn nhiều chỗ. Hộp này đựng nhiều tờ giấy bạch có viết chữ nho, chữ còn chữ mất. Chỉ biết đó là sắc vua ban, ghi nhiều tên và chức vị các quan tùy tùng, hoặc chết vì bệnh tật, hoặc bỏ mình trong lúc đi hộ tống. Trong đó có Nguyễn Văn Vàng, là vị đô đốc tử trận ở Khoa Giang (sông Ông Đốc) và nhiều vị võ quan khác”.
Nguồn gốc của Âm Dương thần miếu cũng được ghi lại khá rõ trong thư tịch. Đại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam Việt, dịch giả Tu trai Nguyễn Tạo) chép: “Đền cổ Cà Mau nằm cạnh huyện lỵ Long Xuyên, xưa gọi là miếu Hội Đồng. Trong đền có bảng vàng, bình phong thêu, cửa sơn đỏ, phòng bí thất, trông rất sáng sủa sạch sẽ, thờ các vị linh thần tam giới rất linh thiêng. Quốc triều có chép vào tự điển”.
Cũng theo Đại Nam nhất thống chí, miếu Hội Đồng ở Cà Mau được dời về xã Đông Mỹ, H.Hà Châu, tỉnh Hà Tiên vào năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Năm ấy, miếu còn lợp cỏ tranh. Đến năm Tự Đức thứ 3 (1850), ngôi miếu mới được trùng tu, lợp ngói. Về sau, ngôi miếu này trở thành ngôi đình thần Thành hoàng xã Mỹ Đức (nay thuộc P.Hà Tiên, An Giang), còn ngôi miếu ở Cà Mau thì gọi là “đền cổ”.
Theo quy định thời nhà Nguyễn, miếu Hội Đồng thờ “các linh thần Âm Dương trong bản cảnh”. Các vị nhân thần và nhiên thần trong miếu đó được triều đình sắc phong thượng, trung và hạ đẳng thần kèm theo mỹ tự. Cái tên Âm Dương thần miếu ở Cà Mau cũng xuất phát từ đây. Còn tên gọi miếu Công Thần có lẽ do cách gọi của dân gian, tương tự như miếu Hội Đồng ở Vĩnh Long cũng gọi là miếu Công Thần.
Nghi thức lễ Tống ôn
Ngày xưa, vào mùa viêm nhiệt thường xảy ra dịch bệnh. Vì vậy, trong ngày cúng miếu thường mời thầy pháp đến làm lễ Tống ôn (còn gọi là Tống gió, Đưa khách), tức tiễn thần “Ôn hoàng dịch lệ”. Lễ Tống ôn xưa có các nghi thức như thầy pháp đánh chiêng gõ đẩu, bắt ấn, đọc bùa, tụng chú… rồi đưa thần Ôn hoàng dịch lệ lên một chiếc tàu kết bằng bẹ chuối cùng với lễ vật, xôi thịt… thả xuống sông, ngụ ý đưa đi xa.

Đình thần Thành hoàng xã Mỹ Đức, Hà Tiên ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Theo tác giả Nghê Văn Lương, trước năm 1945, miếu Âm Dương thần Cà Mau còn duy trì tục cúng này với nhiều nghi tiết. Trong lễ Tống ôn, người ta kết một chiếc tàu bằng bẹ dừa nước rồi để trên một cái bè chuối, trang hoàng hình nhân mang cờ xí đủ màu sắc. Việc tế lễ được bắt đầu từ lúc nửa đêm và kéo dài cho đến sáng. Sau khi hành lễ trong miếu xong thì lối rạng đông, ba hồi trống nổi lên inh ỏi, đèn sáp đốt sáng trưng trên tàu, nhang cắm khắp chỗ. Bấy giờ, khoảng 20 thanh niên lực lưỡng khiêng chiếc tàu xuống bờ sông, đặt trên bè chuối chờ ghe lai dắt ra sông Ông Đốc.
Lễ vật đặt trên chiếc tàu gồm một con heo chừng một tạ, cùng gà vịt, xôi chè và nhang đèn, trái cây, bánh trái các loại. Ngoài ra còn có một mâm đèn và một hộp á phiện. Trước mũi ghe, thầy pháp mặc đồ đen, thắt dây lưng đỏ, mặt mày vẽ vằn vện, tay cầm thanh gươm quơ qua quơ lại, hò hét vang dậy trên sông. Khi ghe tới ngang nhà nào, thì trên bờ nhà đó phải bỏ muối cục vào lửa mà đốt cho nổ lên. Khi ghe dắt chiếc bè ra tới ngã ba sông Ông Đốc và Rạch Giếng thì đợi đến nước ròng chảy thật mạnh, mới cắt dây cho bè trôi ra biển.
Tuy nhiên, bè Tống ôn thường khó trôi được tới vàm sông Ông Đốc. Vì khi gần tới Rạch Cui, cách chừng 10 km thì dân làng ở đó đã chờ sẵn và ra kéo chiếc bè vào bờ. Họ dọn hết các đồ vật cúng trên bè, mở tiệc ngay trên bờ sông rồi phá luôn cho chiếc bè chìm.
Miếu Âm Dương thần hiện nay cũng có ban phụ trách việc cúng tế, hằng năm tổ chức cúng vào ngày 24 – 25 tháng 2 âm lịch. Bà Châu Kim Yến cho biết tục đóng bè thả sông nhiều năm nay đã bỏ, chỉ còn nghi thức đi thỉnh vong và hành lễ bên chùa Sắc tứ Quan Âm. (còn tiếp)
Nguồn: thanhnien.vn








