Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, hai thủ lĩnh Đinh Gia Quế và Nguyễn Thiện Thuật đã lãnh đạo người dân vùng Bãi Sậy (Hưng Yên) đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược.
Đinh Gia Quế (1825 – 1885), còn được biết đến với tên gọi Đổng Quế, là vị thủ lĩnh tối cao đầu tiên của phong trào vũ trang chống Pháp tại Bãi Sậy vào cuối thế kỷ 19. Ông sinh ngày 10.12.1825 (tức ngày 1.11 năm Ất Dậu) tại làng Nghiêm Xá, phủ Thường Tín (nay thuộc TP.Hà Nội). Thuở còn trẻ, Đinh Gia Quế theo con đường Nho học và đỗ Khóa sinh. Sau đó, ông chuyển đến làng Thọ Bình (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) để dạy học, rồi thăng tiến qua các chức vụ Chánh tổng và Chánh tuần huyện Đông Yên.

Nguyễn Thiện Thuật Ảnh: Tư liệu
Khi thực dân Pháp xâm lược Bắc kỳ, Đinh Gia Quế từ quan về quê hương, chiêu mộ nghĩa quân và phất cờ khởi nghĩa tại vùng Bãi Sậy. Ông tự xưng là Đổng quân vụ (nên thường được gọi là Đổng Quế) và cho dựng lá cờ nghĩa thêu tám chữ: Nam đạo Cần Vương – Bình Tây phạt tội.
Giai đoạn đầu (từ tháng 4.1883 – 8.1885) cuộc khởi nghĩa do Đinh Gia Quế lãnh đạo đã lấy Văn chỉ Bình Dân (Hưng Yên) làm đại bản doanh. Tại đây, ông cho xây dựng căn cứ chính tại ấp Thọ Bình với các hạng mục như thành gạch, nhà kho, trường tập bắn, và sân luyện võ. Tuy không quá kiên cố, nhưng căn cứ có cả địa đạo, hầm bí mật, trở thành nơi trú đóng của thủ lĩnh và đội quân thường trực, huy động sức mạnh toàn dân để chiến đấu.
Thế lực của Đổng Quế ngày càng lớn mạnh. “Với phương thức hoạt động phân tán trong dân và sử dụng cách đánh du kích, nghĩa quân tiến hành nhiều trận đánh địch càn quét vào căn cứ, tập kích các đồn Bình Phú, Lực Điền, Thụy Lân (Yên Mĩ), Thụy Lôi (Tiên Lữ), Bần Yên Nhận (Mĩ Hào), phủ đường Ân Thi; phục kích các toán địch tuần tiễu trên đường Hà Nội – Hải Dương, Hưng Yên – Thái Bình…, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại” (Bách Khoa toàn thư Quân sự Việt Nam).
Sau khi Đinh Gia Quế mất vì bệnh vào mùa xuân năm 1885, quyền thống lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy được chuyển giao cho Nguyễn Thiện Thuật.
Nguyễn Thiện Thuật kiên cường chiến đấu
Nguyễn Thiện Thuật (1844 – 1926), tên tự Mạnh Hiếu, còn được gọi là Tán Thuật, là nhà yêu nước kiệt xuất, vị thủ lĩnh lỗi lạc của khởi nghĩa Bãi Sậy. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo tại làng Xuân Dục (nay thuộc xã Đường Hào, tỉnh Hưng Yên), là hậu duệ đời thứ 30 của danh nhân Nguyễn Trãi.

Văn chỉ Bình Dân (xã Triệu Việt Vương, tỉnh Hưng Yên) nơi tế cờ và khởi binh cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy Ảnh: Tư liệu
Nguyễn Thiện Thuật đỗ Tú tài năm 1874, đỗ Cử nhân năm 1876 và được bổ làm quan, lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng. Đầu năm 1883, Nguyễn Thiện Thuật đã sang Đông Triều (Quảng Ninh) để chiêu mộ nghĩa quân. Ông liên kết với Đinh Gia Quế lập căn cứ kháng chiến tại Bãi Sậy.
Tháng 7.1885, sau khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương, Nguyễn Thiện Thuật kế tục sự nghiệp lãnh đạo từ Đinh Gia Quế. Ông nhanh chóng trở thành hạt nhân tập hợp quan lại tiến bộ và nhân dân ở Bắc kỳ, được vua Hàm Nghi phong chức Bắc kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần.
Giới quân sự Pháp phải thừa nhận sự bất lực của chính quyền tay sai trước sự kiểm soát của nghĩa quân Bãi Sậy trong khu vực. Nghĩa binh lập nhiều chiến công vang dội, nổi bật là trận phục kích và gây thiệt hại lớn cho quân Pháp trong cuộc càn quét tháng 10.1885, cuộc tấn công đồn Ghênh và đồn Bần Yên Nhân để trả thù cho Nguyễn Thiện Dương (em trai Nguyễn Thiện Thuật) tử trận năm 1888, đánh tan cuộc phục kích của quân Pháp vào tháng 11.1888.
Dù phong trào Cần Vương dần suy yếu sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888), Nguyễn Thiện Thuật vẫn kiên cường chiến đấu. Ông đã từ chối lời dụ hàng của Hoàng Cao Khải bằng bốn chữ đanh thép: “Bất khẳng thụ chỉ” (Không chịu nhận lệnh).
Báo cáo bằng tiếng Pháp, đề ngày 3.10.1889 của viên Công sứ Pháp ở Hải Dương về thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật (Tán Thuật) và các vị thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Hải Dương và Hưng Yên, có đoạn:
“Tán Thuật không chỉ giữ vai trò thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên) mà còn có thể coi ông như thủ lĩnh chung của các nhóm nổi dậy lớn ở vùng đồng bằng Bắc bộ với tư cách chỉ đạo và hướng sự hoạt động của các nhóm này mang màu sắc chính trị và sự thống nhất trong hành động.
Người ta thấy hôm qua thì ông liên hệ với Đốc Sung (hoặc Lung), hôm nay thì với Đốc Tích, ngày mai thì với Đội Vân… người ta nói rằng ông không có nơi ở cố định không hẳn chỉ vì sự an toàn của cá nhân mà là vì vai trò hoạt động của ông phải như vậy” (nguồn: Trung tâm lưu trữ quốc gia I).
Năm 1888, ông trao quyền chỉ huy cho em trai là Nguyễn Thiện Kế và tùy tướng Nguyễn Đức Mậu, sau đó sang Trung Quốc tìm viện trợ nhưng không thành. Ông qua đời vì bệnh vào ngày 25.5.1926 tại Quảng Tây, Trung Quốc. Mãi đến năm 2005, hài cốt của ông mới được di dời về quê hương Hưng Yên.
Nguồn: thanhnien.vn








