Khuyến khích đầu tư trong nước và hỗ trợ vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ sản xuất nguyên phụ liệu chiến lược…
Đây là một trong những giải pháp lớn được TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu của BIDV đề xuất nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất chiến lược, thúc đẩy doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Doanh nghiệp trong nước đã tiến lên làm chủ gần như toàn bộ chuỗi ở một số ngành chiến lược, thế mạnh của Việt Nam
Hiện ở một số ngành chiến lược, thế mạnh của Việt Nam như nông sản – thực phẩm chế biến, nhựa – bao bì – hóa chất, thép – vật liệu xây dựng… doanh nghiệp trong nước đã tiến lên làm chủ gần như toàn bộ chuỗi. Ngược lại, khu vực FDI nắm giữ phần lớn những lĩnh vực xuất khẩu quan trọng, giá trị gia tăng cao như điện tử, điện thoại, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và phụ tùng.
Ở những ngành này, dù có nhiều nỗ lực nhưng tỷ lệ nội địa hóa chung của Việt Nam năm 2024 đạt 36,6%, ở mức trung bình thấp trong khu vực. Sản phẩm linh phụ kiện do Việt Nam sản xuất thường là chi tiết đơn giản, hàm lượng công nghệ trung bình hoặc thấp, giá trị nhỏ. Theo đánh giá của chuyên gia, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành sản xuất chiến lược ở mức thấp có thể kéo theo một số rủi ro như “hàng trung chuyển”, không đáp ứng tiêu chí của các FTA, có thể bị đánh thuế cao.
Trước xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ chuỗi cung ứng toàn cầu, yêu cầu gia tăng giá trị nội địa hoá cho ngành công nghiệp trở nên cấp bách, góp phần cải thiện vị thế của Việt Nam trong “đường cong nụ cười” sang công đoạn mang lại giá trị cao hơn. Những giải pháp phù nhất để thực hiện yêu cầu trên, theo TS Cấn Văn Lực cần thiết kế ưu đãi có điều kiện, tự nguyện và minh bạch.
Quan trọng hơn cả, cần đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách về nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp phụ trợ. Trong đó, chính sách công nghiệp tổng thể cho giai đoạn 2026 – 2030 và tiếp theo tập trung vào xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, chuyển đổi số và có giá trị gia tăng cao. Đi kèm các chính sách được thiết kế theo nguyên tắc ưu đãi có điều kiện, minh bạch và đo lường hiệu quả, kết hợp đầu tư công, tín dụng xanh và các cơ chế thúc đẩy thị trường carbon,…
Cùng với việc triển khai hiệu quả các chính sách đã ban hành liên quan đến phát triển công nghiệp hỗ trợ cần tiếp tục ban hành các chính sách khuyến khích sản xuất trong nước không chỉ lắp ráp mà còn tự thiết kế, chế tạo. Đồng thời, quy hoạch và hỗ trợ phát triển các cụm công nghiệp – chuỗi giá trị theo ngành (ô tô, điện tử, năng lượng tái tạo), hình thành mối liên kết chặt chẽ giữa nhà sản xuất chính (OEM) và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.
Khuyến khích, tập trung hỗ trợ vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp, dự án sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu chiến lược…
Ngoài ra, nâng cao năng lực hạ tầng, nhất là hạ tầng năng lực, sớm ban hành Luật năng lượng tái tạo phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao khi công nghiệp được tập trung phát triển trong giai đoạn 2025-2030.
Để doanh nghiệp trong nước có thể liên doanh, liên kết với doanh nghiệp FDI, quan trọng nhất doanh nghiệp nội địa cần được “nuôi dưỡng” lớn mạnh. Trước mắt, nhóm nghiên cứu cho rằng, cần hỗ trợ doanh nghiệp SME tham gia chuỗi cung ứng thông qua hoạt động đào tạo về quản trị chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế; hỗ trợ chi phí, thủ tục chứng nhận chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đủ điều kiện trở thành nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 cho các tập đoàn FDI…
Bên cạnh đó, điều chỉnh chính sách thu hút FDI, tập trung vào các lĩnh vực, dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam như bán dẫn, AI, công nghệ sạch, công nghiệp tuần hoàn; ưu tiên dự án có cam kết tỷ lệ nội địa hóa cao, có chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam
Về lâu dài, cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính – đầu tư. Thông qua việc thành lập, vận hành hiệu quả Quỹ phát triển công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ do Nhà nước chủ trì để khuyến khích, tập trung hỗ trợ vốn dài hạn, lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp, dự án sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu chiến lược…; phát triển các kênh huy động vốn trung và dài hạn, nhất là trái phiếu doanh nghiệp, các quỹ đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm.
Cuối cùng, sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ trong giai đoạn tới cần gắn với khoa học công nghệ, chuyển đổi số, tự động hóa và ESG. Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị, theo nhóm nghiên cứu, cần tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng và nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và doanh nghiệp.
Nguồn: vccinews.vn