Trước chủ trương không cho phép các trường ĐH không chuyên đào tạo một số lĩnh vực, ví dụ chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ, ý kiến chuyên gia bày tỏ quan điểm ủng hộ. Trong khi đó, nhiều quan điểm khác nhau về dự kiến không cho phép trường không chuyên khoa luật đào tạo cử nhân luật mà chỉ được dạy luật như một môn phối hợp.

Ảnh minh họa, sinh viên Trường ĐH Khoa học sức khỏe (ĐH Quốc gia TP.HCM) trong lễ tốt nghiệp
Ảnh: Hà Ánh
Ngày 25.11, thảo luận về dự thảo quyết định chủ trương đầu tư 2 chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến lĩnh vực giáo dục và y tế, nhiều đại biểu Quốc hội bày tỏ băn khoăn về chất lượng giáo dục, trong đó có giáo dục ĐH. Nêu ý kiến tại tổ thảo luận, Phó thủ tướng thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình đề cập tới chủ trương không cho phép các trường ĐH không chuyên đào tạo một số lĩnh vực. Ví dụ, chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ. Hay như hiện nay có khoảng 90 cơ sở giáo dục có khoa luật, tới đây sẽ không cho phép trường không chuyên khoa luật đào tạo cử nhân luật mà chỉ được dạy luật như một môn phối hợp.
Theo Phó thủ tướng, y khoa là ngành đòi hỏi chuẩn đầu ra đặc biệt cao nên việc đào tạo phải gắn chặt với bệnh viện thực hành, đội ngũ giảng viên chuyên sâu và hệ thống kiểm định độc lập. Hiện cả nước có 34 trường ĐH đào tạo ngành y với mức học phí và năng lực đào tạo khác nhau. Việc chuẩn hóa điều kiện mở ngành được xem là cần thiết để bảo đảm chất lượng nhân lực y tế trong bối cảnh nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng.
Ủng hộ chủ trương chấn chỉnh lại hoạt động đào tạo ngành y
GS-TS Trần Diệp Tuấn, Chủ tịch Hội đồng trường ĐH Y dược TP.HCM, bày tỏ quan điểm ủng hộ chủ trương chấn chỉnh lại hoạt động đào tạo ngành y của Bộ Chính trị và Chính phủ. Ngành y hiện được đào tạo ở nhiều trường, trong đó có những trường chưa đáp ứng đủ các điều kiện chuẩn về đội ngũ giảng viên, cơ sở thực hành.
“Có những trường, giảng viên cơ hữu rất ít và sử dụng phần lớn bác sĩ của bệnh viện. Bác sĩ bệnh viện là lực lượng rất quan trọng hỗ trợ quá trình đào tạo thực hành cho sinh viên y khoa, nhưng không thể thay thế cho giảng viên ĐH với ngành y. Các sinh viên y khoa cần được học để có nền tảng vững chắc để làm một bác sĩ chứ không chỉ thuần túy thực hành mà không có cơ sở lý luận khoa học. Trong khi đó, nhiều trường không có cơ sở thực hành, sinh viên được gửi đến các bệnh viện và có những bệnh viện sinh viên thực hành còn đông hơn cả bệnh nhân… Điều này về lâu dài sẽ tác động đến chất lượng đào tạo y khoa nói chung”, GS Tuấn nhấn mạnh.
Về định hướng thời gian tới, theo GS-TS Diệp Tuấn, ngoài việc siết chặt mở ngành đào tạo bác sĩ, với các trường đang đào tạo bác sĩ hiện nay nếu tiếp tục cho phép đào tạo cần được kiểm định chặt chẽ để tiếp tục tuyển sinh. Hiện nay bộ tiêu chuẩn kiểm định đang áp dụng chung cho tất cả các ngành, với lĩnh vực y khoa cần có chuẩn riêng với sự tham gia của đội ngũ trong lĩnh vực y khoa.
Đồng quan điểm, tiến sĩ-Bác sĩ Diệp Bảo Tuấn, Giám đốc Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM, chia sẻ: “Tôi hoàn toàn ủng hộ mạnh mẽ chủ trương chỉ trường y khoa mới được phép đào tạo bác sĩ tại Việt Nam. Đây là một bước đi thiết yếu và quan trọng nhằm bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực y tế và, trên hết, là bảo vệ sức khỏe và tính mạng của người dân”.
Tiến sĩ-Bác sĩ Diệp Bảo Tuấn cho rằng, đào tạo y khoa là một lĩnh vực đặc thù, đòi hỏi sự tích hợp chặt chẽ giữa kiến thức lý thuyết chuyên sâu và kỹ năng thực hành lâm sàng. Các trường y khoa chuyên biệt được thiết kế để đáp ứng các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về chương trình học, đội ngũ giảng viên là các chuyên gia đầu ngành, và quan trọng nhất là cơ sở vật chất, đặc biệt là bệnh viện thực hành hoặc các cơ sở liên kết lâm sàng đủ tiêu chuẩn. Việc chỉ giới hạn đào tạo ở các cơ sở này giúp chuẩn hóa đầu ra, đảm bảo mỗi bác sĩ tốt nghiệp đều có đủ năng lực chuyên môn.
“Nghề y là một nghề có nguy cơ cao, sai sót dù nhỏ cũng có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Việc siết chặt quy trình đào tạo ngay từ đầu, chỉ thông qua các trường y khoa có truyền thống và kinh nghiệm, sẽ giúp cung cấp cho thị trường những bác sĩ có đạo đức nghề nghiệp vững vàng và kỹ năng lâm sàng được rèn luyện bài bản. Đây là yếu tố cốt lõi để giảm thiểu rủi ro trong điều trị”, tiến sĩ-Bác sĩ Diệp Bảo Tuấn nhấn mạnh.
Giám đốc Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM còn cho rằng, chủ trương này còn phù hợp với xu hướng quốc tế khi mà hầu hết các quốc gia phát triển đều có hệ thống đào tạo y khoa tập trung và chuyên biệt. Việc áp dụng chủ trương này giúp Việt Nam từng bước tiệm cận với các tiêu chuẩn đào tạo y khoa quốc tế, tạo điều kiện cho việc công nhận bằng cấp và trao đổi chuyên môn trong tương lai.
Tranh luận về định hướng mới đào tạo cử nhân luật
Tiến sĩ Nguyễn Quốc Anh, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ TP.HCM, cho rằng việc siết chặt điều kiện đào tạo đối với các ngành đặc thù như y khoa và luật là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với xu hướng nâng cao chất lượng giáo dục đại học hiện nay. Những lĩnh vực này đòi hỏi năng lực chuyên môn rất cao, đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản, cơ sở thực hành đạt chuẩn và hệ thống kiểm định nghiêm ngặt. Nếu không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chất lượng, việc đào tạo có thể ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội.
Theo tiến sĩ Quốc Anh, việc quy định chỉ những cơ sở có đủ điều kiện mới được phép mở ngành sẽ giúp hạn chế tình trạng đào tạo tràn lan, chạy theo số lượng, cũng như tránh rủi ro về nguồn nhân lực yếu kém trong tương lai. Đồng thời, đây cũng là bước đi quan trọng để chuẩn hóa hệ thống giáo dục đại học, tạo ra sự phân tầng phù hợp và khuyến khích các trường đại học tập trung vào thế mạnh thật sự của mình.
“Nếu chính sách này được triển khai đồng bộ và nhất quán, sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bảo vệ lợi ích của người học và củng cố uy tín của toàn bộ hệ thống giáo dục”, tiến sĩ Quốc Anh nói thêm.
Trong khi đó, PGS-TS Bùi Anh Thủy,Trưởng khoa Luật Trường ĐH Văn Lang, cho rằng việc quyết định cơ sở nào được tiếp tục đào tạo luật cần được đặt trên nền tảng tổng kết, đánh giá một cách hệ thống, lâu dài, ít nhất trong vòng 5- 10 năm, về toàn bộ hoạt động tuyển sinh, đào tạo và cung ứng nhân lực luật của các cơ sở giáo dục có đào tạo luật trên cả nước. Theo PGS Thủy, hiện cả nước có rất nhiều cơ sở tham gia đào tạo luật, bao gồm trường chuyên đào tạo luật, trường có khoa luật và cả những nơi chỉ có bộ môn. Trong khi đó, số trường chuyên về luật chỉ tập trung ở Hà Nội, TP.HCM và Huế, cùng một số mô hình kết hợp như luật – kinh tế.
“Nếu chỉ căn cứ vào tên gọi “trường luật” hay “khoa luật” để phân loại quyền đào tạo thì không có cơ sở, bởi chất lượng không nằm ở danh xưng mà ở thực tế đào tạo. Thực tế, nhiều cơ sở có khoa luật hiện nay đã đào tạo bậc thạc sĩ, tiến sĩ và có chương trình đào tạo, chất lượng đào tạo được kiểm định đạt chuẩn rất tốt”, PGS Thủy nêu ý kiến.
Trưởng khoa Luật Trường ĐH Văn Lang cũng cho rằng, Bộ GD-ĐT đã ban hành nhiều tiêu chuẩn và chuẩn chương trình đào tạo luật, đây mới phải là căn cứ để các cơ sở đào tạo tự rà soát năng lực và chất lượng. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cần đặt trên nền tảng khoa học, minh bạch, đảm bảo tính công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục ĐH.
Trong khi đó, PGS-TS Đỗ Văn Dũng, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP.HCM, nhận thấy nhiều ĐH hàng đầu thế giới là đa ngành, nơi sinh viên y, luật, kỹ thuật học chung môi trường nghiên cứu liên ngành. Vì vậy, theo PGS Đỗ Văn Dũng cần cơ chế chuyển đổi linh hoạt để các trường đa ngành đủ điều kiện đảm bảo chất lượng vẫn duy trì đào tạo, thay vì cấm tuyệt đối.
Nguồn: thanhnien.vn







