Tháng 7.1885, khi chiếu Cần Vương được đưa đến Phú Yên, nhiều sĩ phu, văn thân yêu nước đứng ra thành lập các đạo quân ứng nghĩa để chống giặc, trong đó có Thống soái Bình Tây Lê Thành Phương.
Lê Thành Phương sinh năm 1825 tại làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh, tỉnh Phú Yên cũ (nay là thôn Mỹ Phú, xã Ô Loan, tỉnh Đắk Lắk), là con thứ sáu trong 8 người con của cụ ông Lê Thanh Cao và cụ bà Nguyễn Thị Minh.

Đền Lê Thành Phương Ảnh: Tư liệu Ban quản lý
Năm 32 tuổi, ông đỗ Tú tài tại trường thi hương Bình Định nên thường được gọi là Tú Phương. Sau đó, Lê Thành Phương về quê mở trường dạy học, thường xuyên đi đây đi đó để mở rộng tầm nhìn và kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước trong và ngoài tỉnh.
Theo tài liệu của gia đình (hiện do người cháu 4 đời của Lê Thành Phương là Lê Thành Thao lưu giữ), dòng họ Lê Thành Phương có nguồn gốc ở Thanh Hóa. Vào thời Gia Long, ông Lê Thanh Cao cùng 2 người em trai rời quê hương vào lập nghiệp tại Phú Yên. Cả ba anh em học hành thành tài, đỗ đạt.
Nhà nghiên cứu Đào Nhật Kim trong sách Danh nhân Lê Thành Phương (1825 – 1887) dẫn các tài liệu lịch sử cho biết: “Trong những năm 1861 – 1862, Lê Thành Phương đã gặp Nguyễn Tri Phương, Ngô Quang Bích tại đình làng Phong Phú (tổng Xuân Vinh) trong chuyến vào Nam chỉ đạo việc phòng thủ chống Pháp ở các tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú và chuẩn bị khôi phục lại Biên Hòa rơi vào tay Pháp. Cuộc gặp gỡ này đã tạo ra bước ngoặt trong cuộc đời làm thủ lĩnh của Lê Thành Phương sau này”.
Thời gian tiếp theo, ông bắt đầu tập hợp lực lượng, tích trữ lương thảo, bí mật mua sắm vũ khí, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Khu vực thành An Thổ là nơi nghĩa binh Lê Thành Phương tiến công đánh chiếm trong cuộc khởi nghĩa Cần Vương ở Phú Yên (tháng 9.1885) Ảnh: Hà Dung
Tháng 7.1885, khi chiếu Cần Vương được đưa đến Phú Yên, nhiều sĩ phu, văn thân yêu nước đứng ra thành lập các đạo quân ứng nghĩa để chống giặc, đồng lòng suy tôn Lê Thành Phương là Thống soái Bình Tây. Ngày 15.8 năm đó, ông đã soạn và tuyên đọc bài Hịch chiêu quân trước ba quân tướng sĩ tại núi Một, thôn Tân An, tổng Xuân Vinh. Bài hịch thấm đẫm âm hưởng hùng tráng, trong đó có đoạn: “Hỡi chư tướng/Hỡi sĩ dân/Đồng tâm đứng cả dậy/Đồng tâm giết giặc/Hưởng ứng văn thân cùng Nam, Bắc!” (Hịch chiêu quân – tài liệu do gia tộc Lê Thành Phương lưu giữ và công bố).
Giữ vai trò thủ lĩnh nghĩa quân, Lê Thành Phương vừa đứng ra thống nhất lực lượng kháng chiến trong toàn tỉnh, vừa đề ra đường lối lãnh đạo phong trào Cần Vương Phú Yên, tổ chức đánh địch, giành nhiều thắng lợi. Trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, nhiệm vụ cơ bản đặt ra là lật đổ chính quyền thân Pháp ở Phú Yên, thiết lập chính quyền do lực lượng khởi nghĩa đảm nhận, chuẩn bị công cuộc chống xâm lăng. Tháng 9.1885, bằng trận đánh thần tốc, quyết liệt, nghĩa quân nhanh chóng đánh chiếm thành An Thổ, trung tâm của chính quyền Nam triều tại Phú Yên. Thắng lợi này khiến quân đội Pháp đóng tại Bình Định không kịp ứng cứu.
Không dừng lại ở địa bàn Phú Yên, Lê Thành Phương còn chỉ đạo các cánh quân của Bùi Giảng, Lê Thành Bính, Nguyễn Tấn Thảo tiến vào Khánh Hòa, Bình Thuận hỗ trợ nghĩa quân ở các tỉnh, đưa phong trào vào quỹ đạo Cần Vương.
Khi quân Pháp và quân của tay sai Trần Bá Lộc từ Nam kỳ kéo ra đàn áp cuộc khởi nghĩa, Lê Thành Phương đã lãnh đạo nghĩa quân cả tỉnh nhanh chóng bố trí lực lượng chiến đấu, đương đầu với các cuộc tấn công, gây cho đối phương nhiều thiệt hại.
Trong thư gửi Thống đốc Nam kỳ, công sứ Phú Yên bấy giờ là Tirant đã thừa nhận Lê Thành Phương là người có “năng lực thực sự” và “thông minh hiếm thấy” (Charles Fourniau, Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bình Định – Phú Yên (1885 – 1887), tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.1982).
Thà chết vinh, không chịu nhục
Nhận thấy sự lớn mạnh và nguy hiểm của nghĩa quân Lê Thành Phương, Pháp gấp rút huy động lực lượng lớn gồm 1.500 quân, trong đó có 500 lính Âu Phi do thiếu tá Chevrieux chỉ huy và 1.000 quân của Trần Bá Lộc.

Lễ rước linh vị Lê Thành Phương từ mộ về đền thờ Lê Thành Phương trong Lễ hội tưởng niệm thủ lĩnh Cần Vương Ảnh: Thiên Lý
Ngày 5.2.1887, quân Pháp đổ bộ vịnh Xuân Đài, nhanh chóng đánh chiếm nhiều vùng duyên hải lân cận, chọc thủng phòng tuyến của nghĩa quân tại Tân Thành, Xuân Đài, thành An Thổ rồi đánh chiếm đại đồn Định Trung. Nghĩa quân chiến đấu anh dũng, chặn đánh địch tại đèo Quán Cau, núi Một, đánh giáp lá cà ở Tuy Hòa song vẫn không cản nổi bước tiến của quân Pháp.
Sau thời gian chiến đấu với kẻ địch có ưu thế áp đảo về vũ khí và phương tiện liên lạc, quân khởi nghĩa bị tiêu hao nặng về nhân lực và vũ khí, Lê Thành Phương quyết định rút lui. Ông cho nghĩa quân cơ động thoát khỏi vòng vây, lập căn cứ tạm thời tại vùng núi Vân Hòa, chờ viện binh từ Bình Định và vùng rừng núi phía Tây.
Khi đang tìm cách tái tập hợp lực lượng, chờ thời cơ phản công, đầu tháng 2.1887, trong lúc trở về Tuy Hòa để tính kế tái chiếm đồng bằng, Lê Thành Phương sa vào tay giặc.
Sau nhiều mưu toan dụ dỗ bất thành, địch đem ông xử chém tại bến đò Cây Dừa, thôn Bình Hòa, phủ Tuy An vào ngày 20.2.1887 (28 tháng giêng năm Đinh Hợi). Thi hài Lê Thành Phương được người dân chôn cất tại nghĩa địa Bình Hòa, về sau được rước về an táng tại quê ông (làng Mỹ Phú, tổng Xuân Vinh, tỉnh Phú Yên – nay thuộc xã Ô Loan, tỉnh Đắk Lắk).
“Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (Thà chịu chết chứ không sống nhục) – câu nói của Lê Thành Phương trước lúc bị hành hình đã tỏ rõ tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của một người anh hùng, sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa.
Nguồn: thanhnien.vn








