Sau khi ổn định nền thống trị, triều Nguyễn bắt đầu thực hiện các công trình trị thủy nhằm tăng cường khai phá đồng bằng Nam bộ. Mỗi công trình đào kênh dẫn nước đều được xem là “dự án quốc gia”, được tính toán và điều phối ngay từ cấp cao nhất – cấp thành.

Kênh Vĩnh Tế trên bản đồ năm 1861 Ảnh: Tư liệu
Hà Tiên là trấn quan trọng ở miền biên giới Tây Nam, nhưng địa thế lại xa cách với các trấn khác. Con đường ngắn nhất hướng tới Châu Đốc chỉ đi được bằng thuyền vào mùa lụt. Một tuyến đường cổ từng nối liền hai địa điểm này, nhưng vòng sang hướng tỉnh Kirivong (Campuchia), nối sang rạch Dung Thăng vào sông Châu Đốc. Sự cô lập đó khiến việc cứu viện trấn Hà Tiên khi có binh cách gặp nhiều khó khăn. Giao lưu kinh tế thời bình cũng không dễ dàng.
DỰ ÁN ĐÀO KÊNH VĨNH TẾ
Năm 1816, vua Gia Long đã định nhân lúc đắp đồn Châu Đốc mà dùng nhân công ấy để đào sông nối Châu Đốc – Hà Tiên. Nhưng Tổng trấn Gia Định Thành lúc đó là Nguyễn Văn Nhân can ngăn, viện lẽ chưa có khảo sát kỹ lưỡng. Ngay năm đó, vua Gia Long sai Trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường và Giám thành sứ Nguyễn Đức Nhậm tiến hành đo đạc khảo sát, vẽ bản đồ dâng lên. Năm 1817, vua Gia Long lại định cho đào. Tổng trấn Nguyễn Văn Nhân lại can, vì lẽ lao dịch liên miên, xin tạm bãi đi. Mùa thu năm 1819, khi việc chuẩn bị đã đầy đủ, vua Gia Long mới quyết ý cho đào và ban cho con sông sắp sửa thành hình tên là sông Vĩnh Tế (các văn bản sau này thường gọi là kênh Vĩnh Tế – NV).
Việc đào kênh bắt đầu ngày rằm tháng chạp (1819). Bốn ngày sau, vua Gia Long băng. Công trình tiến hành trong 3 tháng. Đến ngày rằm tháng ba năm Canh Thìn [1820], niên hiệu Minh Mạng thứ nhất thì tạm ngưng. Lúc bấy giờ mới đào được một phần tư kế hoạch, thành kênh 3.224 trượng (1 trượng khoảng 4,7 m – NV). Còn lại 9.992 trượng chưa thành kênh (chưa đạt kích thước trong thiết kế). Vua Minh Mạng cho phép mở tạm đường lạch nhỏ đủ để thuyền nhỏ qua lại. Dự kiến mùa xuân năm sau [1821] lại đào tiếp.

Đôi rồng “lưỡng long tranh châu” trước khu lăng mộ Tả quân ở Lăng Ông Bà Chiểu, TP.HCM ẢNH: QUỲNH TRÂN
Việc tiếp tục công trình do Tả quân Lê Văn Duyệt đảm nhận. Theo kế hoạch, mùa xuân năm 1821 sẽ tiếp tục đào, nhưng bị đình lại vì Nam kỳ phát sinh dịch bệnh. Đến mùa thu năm 1822, vua Minh Mạng ban dụ sai Gia Định Thành tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế.
Tả quân Lê Văn Duyệt quyết định nâng quy mô nhân lực lên hơn ba lần. Đợt đầu tiên chỉ huy động 10.500 người. Lần này, Lê Văn Duyệt huy động hơn 39.000 binh dân ở Gia Định Thành và 16.000 binh dân Cao Miên, chia làm ba phiên, hẹn tháng giêng năm sau [1823] khởi công, đầu mùa hạ phải xong.
Giữa lúc đó thì ở ngoài Bắc có Lý Khai Hóa nổi dậy làm phản. Tả quân Lê Văn Duyệt lo ngại, mật tâu xin hoãn đào kênh. Nhưng vua Minh Mạng trả lời rằng: “Tướng giặc không lâu nữa sẽ giết được, không phải lo về phương bắc. Sông ấy lập tức nên đào, cho xong công việc cũ”. Mặc dù vậy, việc đào kênh cũng bị hoãn lại. Đến tháng hai năm Minh Mạng thứ ba [1824] thì bắt đầu.
Đợt đào này trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất chính là khơi sông ở đoạn Náo Khẩu Ca Âm. Đây là một vùng nước đọng lớn trải dài từ phía bắc núi Dài Năm Giếng cho đến núi Phú Cường (thuộc tỉnh An Giang). Trong lần đào thứ nhất, vùng nước này bị bỏ qua. Sau khi đường sông đã thành, một phần nước của Náo Khẩu bị rút ra biển Tây, nên bắt buộc phải đào luôn phần ấy. Bắt đầu đào từ cửa phía đông của Náo Khẩu, hướng về phía Thất Sơn, tới xứ Trà Cục. Tổng cộng dài 8.004 tầm (1 tầm khoảng 2,6 m – NV), mặt kênh rộng 12 tầm, lòng kênh rộng 10 tầm, độ sâu từ 5 đến 7 thước tùy từng đoạn. Phần việc này hoàn thành chỉ sau một tháng.
Đầu tháng 3, công trình chuyển sang giai đoạn tu chỉnh đoạn sông đã đào từ Trà Cục tới tấn Cây Cờ. Đến ngày 29, Tả quân Lê Văn Duyệt tâu về rằng: “Chỗ này năm trước thành sông là 8.120 tầm. Thần thấy công trình to lớn, kỳ nước lũ đổ về, thần sợ đoạn sông này không thể hoàn thành. Thần đã sức cho các trấn ấy cùng với các viên biền binh chiếu theo số dân binh mình quản, dồn cả ra làm việc. Đầu tuần tháng ấy mọi người đều đã lục tục đi làm”.

Mộ Tả quân Lê Văn Duyệt ẢNH: QUỲNH TRÂN
Nhân chứng đương thời là Gibson (người trong sứ đoàn Miến Điện) ghi nhận, rằng Lê Văn Duyệt đã quản lý nghiêm ngặt các quan lo việc đào kênh, như cho hành hình một viên chức Bắc Hà được trưng làm Cai quản công trường, vì nghe mấy chuyện không hay mà người đó làm trong quá khứ. Ong – Quan – Tabaonhy (Ông quản Tả Bảo Nhị, tên một vệ quân thuộc biên chế Tả quân) cũng bị tống giam vì bòn rút tiền của dân phu đào kênh và lấy tiền của nông dân các làng lân cận.
Chưa bao lâu, Lê Văn Duyệt cáo ốm. Việc đào kênh giao lại cho Phó tổng trấn Trương Tấn Bửu. Kết thúc đợt đào thứ hai vẫn còn khoảng 1.700 trượng phải đào thêm cho đạt kích thước thiết kế. Phần việc này đến năm 1824 do Phó tổng trấn Trần Văn Năng đảm nhiệm hoàn thành.
Nguồn: thanhnien.vn








