Việc luật hoá Nghị quyết 42 có hiệu lực mới đây vào ngày 15/10, lần đầu tiên nâng tầm hành lang pháp lý cho công tác xử lý nợ xấu.
Xử lý nợ xấu theo hướng bền vững hơn
Việc luật hoá Nghị quyết 42 có hiệu lực mới đây vào ngày 15/10, lần đầu tiên nâng tầm hành lang pháp lý cho công tác xử lý nợ xấu. Từ việc thí điểm trước đây, có tính chất tạm thời trong khoảng thời gian nhất định, nay những điều khoản trọng yếu từ nghị quyết này đã trở thành những cơ chế được quy định rõ trong Luật các tổ chức tín dụng. Như vậy, các tổ chức tín dụng giờ đã chính thức được trao quyền chủ động thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ, thay vì phải canh chừng thời điểm Nghị quyết 42 hết hiệu lực như trước đây.
Thực tế đã chứng minh trong 6 năm thí điểm, từ năm 2017-2023, có 443.000 tỷ đồng nợ xấu đã được xử lý, nhiều gấp 2,5 lần so với giai đoạn trước đó từ năm 2012-2017 khi chưa có nghị quyết này. Không chỉ về số lượng, mà chất lượng công tác xử lý nợ xấu cũng đang chuyển dịch theo hướng bền vững hơn.
Một cửa hàng vẫn đang cho thuê, hoạt động kinh doanh ngay mặt phố tại trung tâm TP. Hồ Chí Minh. Đây là tài sản đảm bảo vay nợ từ hơn chục năm nay và đã trở thành nợ xấu. Hợp đồng mua bán khoản nợ xấu đã được mua về từ năm 2019, tức là cách đây khoảng 6 năm, nhưng cho tới thời điểm hiện tại, việc xử lý vẫn còn dở dang.
Trên hợp đồng tín dụng khi vay nợ, mặc dù có điều khoản người vay phải có nghĩa vụ bàn giao tài sản và phối hợp với ngân hàng để xử lý tài sản, nhưng trên thực tế, có nhiều trường hợp người vay không hợp tác, ngân hàng và công ty xử lý nợ buộc phải khởi kiện.
Ông Đỗ Giang Nam – Thành viên Hội đồng thành viên Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) cho biết: “Có những tài sản mà chúng tôi phải rất vất vả trong quá trình xử lý do khách hàng không phối hợp, chây ỳ, cố tình tạo ra các tranh chấp không bàn giao tài sản… Điều này khiến tổ chức tín dụng VAMC mất rất nhiều thời gian và công sức. Khi luật tổ chức tín dụng chính thức có hiệu lực và nghị định hướng dẫn về các điều kiện tài sản thu giữ được Chính phủ ban hành, VAMC sẽ có đầy đủ hành lang pháp lý để tiến hành thu giữ và xử lý tài sản đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật”.
Thống kê cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2017 – 2023, khi Nghị quyết 42 có hiệu lực, cho phép các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm, ý thức trả nợ của người vay đã tăng từ 22,8% lên 36,4%. Khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào cuối năm 2023, đã tạo ra khoảng trống pháp lý cho vấn đề này. Do đó, việc chính thức luật hóa quy định này được kỳ vọng sẽ nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu.
Ông Nguyễn Quốc Hùng – Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam chia sẻ: “Việc này nâng cao ý thức trách nhiệm của người vay với khoản nợ của mình. Nếu không trả nợ được thì tự nguyện bàn giao tài sản hoặc phát mãi tài sản để trả nợ. Trường hợp cùng lắm, ngân hàng mới tiến hành thu giữ. Ý thức trả nợ của khách hàng và việc tuân thủ quy định pháp luật của khách hàng được nâng lên, việc thu hồi và xử lý nợ xấu sẽ giải quyết được một bước. Nhưng quan trọng hơn là đưa dòng vốn ách tắc vào trong lưu thông”.
Báo cáo tài chính quý II của 29 ngân hàng cho thấy, có tới 23 ngân hàng có số dư nợ nợ xấu tăng cao hơn. Vì thế, khi các quy định về xử lý nợ xấu chính thức có hiệu lực, sẽ tạo hành lang pháp lý, giúp các tổ chức tín dụng duy trì được tỷ lệ nợ xấu trong ngưỡng an toàn.

Có thể hiểu Nghị quyết 42 giống như một công cụ để hệ thống các tổ chức tín dụng nâng cao năng lực xử lý nợ xấu của mình
Thúc đẩy khâu thực thi xử lý nợ xấu
Thực tế một trong những cơ sở để S&P Global Ratings mới đây nâng hạng tín nhiệm cho ba ngân hàng thương mại của Việt Nam, theo FiinGroup, cũng xuất phát từ việc hoàn thiện khung pháp lý và luật hoá Nghị quyết 42.
Có thể hiểu Nghị quyết 42 giống như một công cụ để hệ thống các tổ chức tín dụng nâng cao năng lực xử lý nợ xấu của mình. Tuy nhiên, nay công cụ đã có, việc sử dụng công cụ đó sao cho hiệu quả, lại là vấn đề của chính các tổ chức tín dụng trong giai đoạn tới.
Nếu 4 ngân hàng thương mại Nhà nước và 4 ngân hàng thương mại cổ phần, tạm gọi là top 8, ghi nhận tỷ lệ thu hồi nợ xấu trung bình cải thiện rõ rệt từ mức 8% lên mức 45% sau khi có Nghị quyết 42 thì với nhóm ngân hàng trung bình và nhỏ, kể cả khi có Nghị quyết 42, tới nay tỷ lệ này vẫn chỉ quanh mức từ 0-10%.
Ông Lê Hồng Khang – Giám đốc Phân tích, FiinRatings nêu ý kiến: “Tài sản bảo đảm của Big 4 rất dễ xử lý, vì đó là những bất động sản. Còn nhóm ngân hàng TMCP trung bình và yếu có khi không đảm bảo được tính pháp lý. Có thể thấy chất lượng tài sản đảm bảo và khẩu vị rủi ro của ngân hàng thương mại là yếu tố rất quan trọng, phụ thuộc nhiều vào năng lực nội tại của tổ chức tín dụng”.
Ông Trương Thanh Đức – Giám đốc Công ty Luật ANVI đưa ra ý kiến: “Từ khi thẩm định khi cho vay, quản lý khoản vay, làm tốt toàn bộ các khâu thì mới có thể nói câu chuyện xử lý nợ xấu tốt”.
Không chỉ lựa chọn khẩu vị rủi ro và chất lượng tài sản đảm bảo ngay từ đầu, các ngân hàng còn cần có chuẩn mực và công khai quy trình thu hồi và bàn giao tài sản đảm bảo.
PGS.TS Đỗ Hoài Linh – Viện Ngân hàng Tài chính, Đại học Kinh tế Quốc dân nhận định: “Việc thu hồi tài sản bảo đảm luôn luôn là những hoạt động rất dễ gây xung đột, rất cần các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phải đào tạo đội ngũ thu hồi nợ ngoài nghiệp vụ và chuyên môn có tinh thần hợp tác, giảm việc xảy ra xung đột đến mức tối thiểu”.
Theo chuyên gia, để các ngân hàng có thời gian điều chỉnh quy trình xử lý nợ xấu theo quy định mới, cũng phải ít nhất tới nửa cuối năm tới năm 2026, Nghị quyết 42 mới có thể thực sự ghi nhận tác động đáng kể.
Trên thế giới, việc luật hoá cơ chế xử lý tài sản bảo đảm ngoài tố tụng cũng đã được thực hiện tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Ví dụ, tại Hong Kong, được quyền thu giữ và trong một số điều kiện nhất định, bán tài sản thế chấp mà không cần khởi kiện ra tòa. Hay tại Australia, bộ luật có hiệu lực từ 13 năm trước, năm 2012, đã quy định quyền được thu giữ tài sản thế chấp bằng bất kỳ phương pháp nào được pháp luật cho phép. Điều này cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng và từng bước rút ngắn khoảng cách pháp lý so với thông lệ quốc tế.
Với nội tại nền kinh tế Việt Nam, việc có cơ chế xử lý, thu hồi tài sản bảo đảm sẽ giúp ngân hàng tiết kiệm đáng kể cả thời gian và chi phí, qua đó có dư địa để giữ mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp như hiện nay. Nhìn rộng hơn, mấu chốt là duy trì một tỷ lệ an toàn vốn để toàn hệ thống ngân hàng củng cố sức chống chịu trong dài hạn. Do đó, vẫn cần thêm những cơ chế để tiếp tục tăng cường bộ đệm vốn, đặc biệt là trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng nhanh để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế.