Nhà thơ Nguyễn Duy (tên khai sinh Nguyễn Duy Nhuệ), sinh năm 1948 ở Đông Sơn, Thanh Hóa. Ông đi bộ đội năm 1966, chiến đấu tại các mặt trận phía Nam và phía Bắc, rồi về công tác ở Báo Văn Nghệ – Hội Nhà văn VN, hiện đã nghỉ hưu, sống tại TP.HCM.
Năm 1973, chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Tre Việt Nam, Bầu trời vuông… của ông được trao giải nhất cuộc thi của Báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn VN, đã làm nên tên tuổi của ông trong thi ca chiến tranh.

Nhà thơ Nguyễn Duy Ảnh: Tư liệu
Khởi đầu, thơ Nguyễn Duy nghiêng về trữ tình lãng mạn với cái nhìn chiêm nghiệm mang màu sắc dân gian về con người và cuộc đời, và đã làm nên một phong cách thơ độc đáo của riêng ông, đặc biệt là ở mảng thơ lục bát.
Với sự sáng tạo không mệt mỏi, nhà thơ Nguyễn Duy không dừng lại ở những thành tựu thơ lục bát đã đạt được, mà lặng lẽ tự đổi mới và tự cách tân thơ mình ở những bài thơ dài viết theo thể tự do, giàu tính biểu cảm, với những chiều kích của suy tư chiêm nghiệm và sức suy tưởng lớn lao mang nội dung đời sống nhân sinh khá mãnh liệt. Ông làm mới trường ca bằng giọng điệu đối thoại và tự vấn, không ngợi ca sáo rỗng, mà là thức tỉnh với trách nhiệm công dân. Đây cũng chính là đóng góp đáng kể của ông về mặt đổi mới thi pháp trong tiến trình phát triển của thơ đương đại VN trong những thập niên cuối thế kỷ XX.
Tiêu biểu cho sự tìm tòi, cách tân trong thi ca, Nguyễn Duy có bộ 3 bài thơ tự do nổi tiếng được công chúng biết tới viết về những trăn trở, suy nghĩ của ông về đất nước, con người, thiên nhiên và không gian môi sinh: Đánh thức tiềm lực (viết năm 1980 – 1982); Nhìn từ xa… Tổ quốc (viết năm 1988 – 1989) và Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ (viết năm 1991 – 1992).
Thơ ông là tiếng nói của một con người sống giản dị, sâu sắc và nhân bản, luôn trăn trở với quá khứ, hiện tại và cả tương lai của đất nước. Ông cũng là nhà thơ luôn tìm tòi cách tân về hình thức, đặc biệt là cách làm mới thể thơ lục bát truyền thống, mà Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một bài thơ lục bát xuyên thời gian còn đọng mãi trong trái tim hàng triệu người yêu thơ Việt đến hôm nay: “Bần thần hương huệ thơm đêm/khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn/chân nhang lấm láp tro tàn/xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào/Mẹ ta không có yếm đào/nón mê thay nón quai thao đội đầu/rối ren tay bí tay bầu/váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa/Cái cò… sung chát đào chua…/câu ca mẹ hát gió đưa về trời/ta đi trọn kiếp con người/cũng không đi hết mấy lời mẹ ru/Bao giờ cho tới mùa thu/trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm/bao giờ cho tới tháng năm/mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao/Ngân hà chảy ngược lên cao/quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…/bờ ao đom đóm chập chờn/trong leo lẻo những vui buồn xa xôi/Mẹ ru cái lẽ ở đời/sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn/bà ru mẹ… mẹ ru con/liệu mai sau các con còn nhớ chăng/Nhìn về quê mẹ xa xăm/lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa/ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…“.
Thơ ông mang hơi hướng triết lý phương Đông, nhiều chất thiền, Phật, nhân sinh, đồng thời thể hiện ý thức phản biện và dám nói thật trong thời đại mới. Đặc điểm nghệ thuật giai đoạn sau của Nguyễn Duy thể hiện qua cấu trúc thơ tự do với nhiều khoảng lặng và ngắt nhịp táo bạo với các hình ảnh tượng trưng trong hình thái tư duy thơ mang tính chiêm nghiệm, hiện sinh và phản tỉnh xã hội.
CÁCH TÂN THƠ LỤC BÁT CẢ VỀ NGỮ ĐIỆU VÀ NỘI DUNG TRÌNH HIỆN
Cách tân thơ lục bát là một đóng góp lớn của Nguyễn Duy. Tập thơ Sáu và Tám của ông là công trình cách tân thể thơ truyền thống này.
Nguyễn Duy là người đầu tiên táo bạo phá cách lục bát, biến thể thơ này hiện đại hóa cả về ngữ điệu, hình thức, cú pháp và nội dung. Ông phá vỡ nhịp truyền thống 6/8 bằng cách đan xen ngắt dòng, xuống dòng bất ngờ. Ông dùng lục bát để viết cảm thức hiện đại, các vấn đề xã hội, triết lý sống, suy nghiệm cá nhân với cách sử dụng ngôn ngữ rất tài hoa và hiện đại bằng giọng giễu nhại đậm tính dân gian theo kiểu “Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi/Người cười nói xúc phạm người ngậm tăm/Siêng làm xúc phạm phàm ăn/Kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng/Đàn kêu tưng tửng từng tưng/Con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu/Bông hoa xúc phạm con sâu/Con cá xúc phạm lưỡi câu ao nhà/Ông bụt xúc phạm con ma/Lão say khướt xúc phạm bà tỉnh queo/Cái sang xúc phạm cái nghèo/Cái ngay xúc phạm cái khoèo bẩm sinh/Đàn kêu tinh tỉnh tình tinh/Cái tâm xúc phạm cái hình vô tâm/Cõi dương xúc phạm cõi âm/Cõi thiêng xúc phạm cõi trần tục gian/Đàn kêu tang tảng tàng tang/Nàng chơi đẹp xúc phạm chàng xấu chơi/Ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi/Người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau” (Xẩm ngọng).
Đây là thứ lục bát cách tân, mang chất thơ đô thị, thơ hiện sinh, vượt qua tính trữ tình cổ điển để thể hiện tâm thế thời đại. Những bài học về thi pháp và nghệ thuật thơ của Nguyễn Duy cho thấy, thơ trước hết phải bắt nguồn từ sự thật và trải nghiệm sống, ông không làm thơ “tưởng tượng” mà viết bằng trái tim đã từng chiến đấu, đã từng yêu, từng mất mát. Thơ của ông cho thấy không gì mạnh hơn sự trung thực, không gì bền bằng nỗi đau đã được gạn lọc qua thời gian.
Nguyễn Duy không chỉ giữ gìn lục bát như một di sản, mà còn tái sinh nó, làm cho nó sống giữa đô thị hiện đại, trong tâm trí những người trẻ, trong ký ức của cả một dân tộc.
Nguồn: thanhnien.vn