Tín chỉ carbon xanh dương có giá trị lớn nhờ khả năng hấp thụ carbon mạnh mẽ nhưng các nhà đầu tư toàn cầu lại ngần ngại rót vốn.
“Tiền tệ” đặc biệt của thiên nhiên
Chia sẻ về các loại tín chỉ carbon đang được các nhà đầu tư trên toàn cầu quan tâm, bà Betty Pallard – CEO ESG Climate Consulting cho biết: hiện có 3 loại là tín chỉ carbon trắng, tín chỉ carbon xanh lá cây và tín chỉ carbon xanh dương. Trong đó, tín chỉ carbon trắng xuất phát từ khả năng sáng tạo của con người thông qua các công nghệ tiên tiến. Trên toàn cầu đã có những công ty phát triển các công cụ kỹ thuật để hút trực tiếp carbon từ khí quyển và lưu trữ trong các hình thức bền vững khác.

Bà Betty Pallard – CEO ESG Climate Consulting: tín chỉ carbon xanh dương, xuất phát từ khả năng hấp thụ carbon mạnh mẽ của nước, thậm chí còn lớn hơn cả cây xanh
Tương tự như vậy là tín chỉ carbon xanh lá cây nhưng thay vì máy móc, cây xanh được sử dụng để hấp thụ carbon và lưu trữ lâu dài dưới đất. Khả năng lưu trữ càng cao, tín chỉ carbon càng có giá trị.
Cuối cùng là tín chỉ carbon xanh dương, xuất phát từ khả năng hấp thụ carbon mạnh mẽ của nước, thậm chí còn lớn hơn cả cây xanh. Tuy nhiên, theo bà Betty Pallard, việc đo lường chính xác lượng carbon được hấp thụ trong môi trường nước vẫn còn nhiều thách thức.
Mỗi loại tín chỉ carbon dành cho các nhà đầu tư khác nhau với những mục đích khác nhau. Chẳng hạn, những nhà đầu tư có đam mê đầu tư phát triển công nghệ cao, tín chỉ carbon trắng là sân chơi của họ.
Những người có khả năng bảo tồn rừng, trồng cây và thực hiện các nỗ lực để tăng khả năng hấp thụ carbon của cây xanh và rừng nên tập trung vào tín chỉ carbon xanh lá cây. Với những người có sức mạnh trong việc bảo tồn nguồn nước nên hướng đến tín chỉ carbon xanh dương.
Đề cập sâu hơn về tiềm năng tín chỉ carbon xanh dương của Việt Nam nói riêng và khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung, GS TS Phạm Thu Thủy – Đại học Flinders (Australia) qua những nghiên cứu của mình đã nhấn mạnh: thị trường chủ yếu tập trung vào các dự án carbon rừng ngập. Hiện Indonesia, Myanmar và Việt Nam chiếm 60% tổng số dự án carbon xanh rừng ngập mặn toàn cầu.
Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng, khi nói về carbon xanh dương mà chỉ tập trung vào hệ sinh thái ven biển với rừng ngập mặn, rặng san hô, bãi triều – những bể chứa carbon với tiềm năng giảm phát thải rất lớn – như quan điểm lâu nay có thể chưa đầy đủ.

Rừng ngập mặn chỉ là một trong những bể chứa carbon xanh đang được Việt Nam, bao gồm các doanh nghiệp tiên phong bảo tồn và phục hồi
Nhiều bằng chứng khoa học trên toàn cầu chứng minh tín chỉ carbon xanh dương còn nằm ở các hệ sinh thái trên đất liền bao gồm các khu ngập nước, lòng hồ, sông ngòi, hồ chứa… Những khu vực được đánh giá có tiềm năng lớn trong việc cung cấp tín chỉ carbon xanh dương, giảm phát thải.
Củng cố niềm tin của các nhà đầu tư
Trước lợi thế và giá trị của tín chỉ carbon xanh dương, nhiều nền kinh tế APEC đang điều chỉnh kế hoạch phát triển bền vững của ngành lương thực, du lịch và vận tải nhằm phù hợp hơn với cơ hội từ thị trường carbon xanh. Các chuyên gia đánh giá, thị trường này cần được khai mở mạnh mẽ hơn để thu hút đầu tư tư nhân bởi hiện chỉ 15/74 dự án (20%) đạt tiêu chuẩn và đăng ký chính thức, trong đó có 3 dự án đã bán được tín chỉ.
Theo TS Phạm Thu Thủy, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ tiên tiến và AI được ghi nhận có vai trò giảm chi phí, tăng độ chính xác cho các dự án carbon xanh và hỗ trợ chiến lược phát triển carbon. Tuy nhiên, qua tiếp xúc với nhiều nhà đầu tư, TS Phạm Thu Thuỷ nhận thất vẫn còn nhiều thách thức cần vượt qua như các khái niệm chưa nhất quán, năng lực kỹ thuật chênh lệch giữa các quốc gia khiến chi phí đầu tư bị đẩy cao.
Trong khi đó, cơ sở pháp lý cho thị trường carbon đang được xây dựng, chưa tạo dựng được niềm tin với các nhà đầu tư trong giao dịch tín chỉ quốc tế. Kinh nghiệm từ một số quốc gia đã thành công trong phát triển thị trường carbon cho thấy, thị trường này thành công hay thất bại phụ thuộc trực tiếp vào thiết kế thể chế. Những thị trường carbon được vận hành kém có thể dẫn đến tình trạng “carbon trên giấy”, tức tín chỉ không phản ánh giảm phát thải thực chất, làm suy giảm lòng tin và ảnh hưởng đến tham vọng khí hậu toàn cầu.
Ngoài hệ sinh thái rừng ngập mặt, các hệ sinh thái biển và đất liền chưa được chú ý nhiều. TS Phạm Thu Thủy nhận định: việc dịch chuyển carbon từ đất liền ra đại dương thường bị xem nhẹ, dẫn đến đánh giá quá cao lượng carbon lưu trữ trên cạn và đánh giá thấp lượng tích tụ trong trầm tích và đại dương. Bên cạnh đó, các ngành lương thực, du lịch và vận tải vẫn còn dư địa lớn để tham gia tài trợ cho carbon xanh.
Nguồn: diendandoanhnghiep.vn








