Monday, September 22, 2025

Nhân tài công nghệ cao: Chìa khóa để hiện thực hóa nền kinh tế công nghệ cao, thu nhập cao

Để thành công trong giai đoạn quá độ vươn lên vị thế cao hơn trong chuỗi giá trị, các nền kinh tế cần hình thành được một đội ngũ lao động có kỹ năng cao với quy mô lớn, có khả năng thu hút đầu tư và thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST). Việt Nam đã nhận thức được điều đó, thể hiện qua việc các định hướng chính sách gần đây cho thấy sự ưu tiên cho khoa học, công nghệ và đặc biệt là nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao, coi đây là những động lực then chốt cho tăng trưởng.

Nhiều chính sách ưu tiên cho nhân lực ĐMST

Những chính sách mới của Chính phủ (giai đoạn 2023-2025) thể hiện rõ cam kết chính trị mạnh mẽ cho bước nhảy vọt sang các ngành công nghiệp tiên tiến và xây dựng nền kinh tế tri thức, chú trọng phát triển nhân tài và ĐMST. Cụ thể, Nghị quyết số 57-NQ-TW (2025) của Bộ Chính trị ưu tiên coi khoa học, công nghệ và ĐMST là động lực tăng trưởng, kêu gọi tạo đột phá về chất lượng lực lượng lao động và chuyển đổi số. Nghị quyết số 193/HQ15 (2025) của Quốc hội ban hành những cải cách thí điểm đặc thù về chính sách khoa học, công nghệ và ĐMST, chẳng hạn những cơ chế mới về đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), nâng cao tự chủ cho các viện nghiên cứu.

Nhân tài công nghệ cao: Chìa khóa để hiện thực hóa nền kinh tế công nghệ cao, thu nhập cao

Bên cạnh đó, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về những lĩnh vực trọng yếu trong giai đoạn 2024-2025 như: Quyết định số 1018 về phát triển lĩnh vực vi mạch bán dẫn, Quyết định số 1131 về 11 công nghệ chiến lược, Quyết định số 374 về xây dựng mạng lưới các trung tâm đào tạo xuất sắc cấp quốc gia, và Quyết định số 1002 về phát triển lực lượng lao động công nghệ cao…

Có thể thấy, Việt Nam đã đặt ra các chỉ tiêu mạnh mẽ về phát triển công nghệ cao – từ nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị vi mạch bán dẫn đến trở thành một trong ba quốc gia đứng đầu ASEAN về năng lực trí tuệ nhân tạo (AI) và phát triển kinh tế sinh học lên mức 7% GDP vào năm 2045. Và để đạt được những mục tiêu đó, Việt Nam cần phải có bước nhảy vọt về năng lực đổi mới sáng tạo và nền tảng về nhân tài công nghệ trong nước.

Trong báo cáo mới công bố gần đây của WB, nhân tài là đầu vào mang tính quyết định trong các lĩnh vực công nghệ, tạo ra vòng lặp đổi mới sáng tạo khi được kết hợp với đầu tư về nghiên cứu & phát triển. VN đã tiến được những bước lớn về giáo dục và đổi mới sáng tạo với lực lượng lao động STEM lớn (khoảng 560.000 chuyên gia trẻ (ở độ tuổi 22-35) có bằng đại học vào năm 2023).  Lực lượng lao động này là điểm khởi đầu trọng yếu trong bối cảnh các ngành công nghệ cao đều đòi hỏi lực lượng lao động nhân tài lớn. Trong ngành dịch vụ phần mềm và lập trình máy vi tính ở Việt Nam (một ngành thâm dụng công nghệ, bao gồm gần như toàn bộ các doanh nghiệp thiết kế vi mạch điện tử trong nước), hơn 80% số lao động có bằng đại học và gần 90% được tuyển dụng cho các vị trí đòi hỏi kỹ năng cao như kỹ sư, nhà khoa học hoặc kỹ thuật viên cao cấp. Trong các ngành công nghiệp hỗ trợ chế tạo chế biến công nghệ cao, ngành dược phẩm có tỷ lệ lao động có bằng đại học, tay nghề cao gấp hơn bốn lần mức bình quân của tất cả các ngành công nghiệp chế tạo chế biến.

Theo thống kê, Việt Nam đã nằm trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu trong “Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu”, xếp thứ 44/133 nền kinh tế vào năm 2024 (tăng từ thứ hạng 46 trong năm 2023), thuộc dạng vươn lên nhanh nhất về kết quả đổi mới sáng tạo so với mức thu nhập.

Thiếu hụt đội ngũ nhân tài cốt lõi

Để những mục tiêu công nghệ cao được chuyển hóa thành những hành động cụ thể, WB cho rằng, Việt Nam cần gia tăng lực lượng nhân tài đáng kể trên nhiều phương diện. Trước hết, quy mô nhân tài cần được mở rộng, vì Việt Nam cần một số lượng lớn các kỹ sư và nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực công nghệ cao nói chung. Không chỉ về số lượng lao động có kỹ năng, mà cả về chất lượng, chiều sâu, mức độ hội nhập về đào tạo, nghiên cứu, và tác phong công nghiệp cũng cần cải thiện. Trong tuyến đầu về nghiên cứu, có hai thách thức lớn, đó là Việt Nam chưa có trường đại học nào được đưa vào nhóm 200 đại học hàng đầu toàn cầu về kỹ thuật hoặc khoa học, và chưa xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học, nhân sự đổi mới sáng tạo mạnh trong nước được quốc tế công nhận trong những lĩnh vực hàng đầu.

“Trọng tâm của vòng luẩn quẩn này chính là việc thiếu hụt giảng viên có bằng tiến sỹ, gây là rào cản đào tạo sinh viên sau đại học và cán bộ nghiên cứu có trình độ cao. Tình trạng thiếu đầu tư kinh niên cho giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu & phát triển dẫn đến tình trạng các trường đại học thiếu kinh phí, hoạt động nghiên cứu & phát triển ở khu vực tư nhân kém phát triển”, WB đánh giá. Bên cạnh đó, việc liên kết giữa đại học – doanh nghiệp còn yếu làm kéo dài tình trạng chương trình học lạc hậu, kỹ năng không phù hợp, hạn chế về phối hợp trong nghiên cứu & phát triển. Tình trạng thiếu hụt hạ tầng – ví dụ như các phòng thí nghiệm tiên tiến và cơ sở vật chất sản xuất nguyên mẫu – càng cản trở quá trình chuyển tiếp từ phòng thí nghiệm ra thị trường, làm chậm quá trình thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.

Để giải quyết tình trạng này, WB đã đưa ra khuyến nghị xoay quanh ba trụ cột bổ trợ cho nhau. Trụ cột thứ nhất là phát triển sâu và rộng đội ngũ nhân tài công nghệ thông qua cấp học bổng sau đại học của quốc gia dành cho sinh viên cao học/tiến sỹ, chương trình thu hút nhân tài toàn cầu, và đề án về giảng viên ưu tú. Trụ cột thứ hai nhằm phát triển cơ sở hạ tầng chung về nghiên cứu & phát triển và thí điểm, qua việc thiết lập một mạng lưới các trung tâm ưu tú quốc gia, các nền tảng công nghệ truy cập mở, và các cơ sở đổi mới sáng tạo thí điểm nhằm thu hẹp khoảng cách “từ phòng thí nghiệm ra nhà máy”. Trụ cột thứ ba nhằm tăng cường liên kết giữa đai học – doanh nghiệp – chính quyền và tối đa hóa tác động lan tỏa thông qua các cụm công nghệ cùng chung địa điểm, chương trình lưu chuyển nhân tài, các khoản hỗ trợ hợp tác nghiên cứu & phát triển phối hợp.

“Các biện pháp trên có thể tạo ra vòng lặp tích cực về nhân tài và đổi mới sáng tạo, hình thành nên lực lượng lao động có kỹ năng và sản phẩm nghiên cứu & phát triển, góp phần cho công quốc chuyển đổi để Việt Nam trở thành nền kinh tế thu nhập cao, công nghệ cao”, WB khẳng định.

 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN