Thursday, October 30, 2025

Rời đi hay ở lại sau lũ?

Khi rủi ro thiên tai vượt ngưỡng chịu đựng, di dời có quản lý trở thành giải pháp giúp người dân tái định cư vùng ngập lũ và an cư bền vững trước biến đổi khí hậu.

Chung cư nơi tôi ở vừa xảy ra vụ việc một gia đình trẻ phải bán nhà vì không chịu nổi tiếng khóc thường xuyên của trẻ nhỏ trong căn hộ sát bên. Đứa trẻ khóc cả ngày. Tiếng khóc xuyên tường. Bữa cơm không yên. Giấc ngủ bị cắt vụn. Vợ chồng trẻ đành rời đi để tìm một nơi sống yên ổn hơn.

Câu chuyện ấy nói nhiều điều về ngưỡng chịu đựng của con người. Khi bất an lặp lại hằng ngày thì việc chuyển nhà không còn là chọn lựa cảm tính mà trở thành quyết định vì sức khỏe và tương lai.

Khi ở lại trở thành rủi ro, vì sao cần di dời có quản lý?

Ở tầm cộng đồng cũng vậy. Với những vùng năm nào cũng ngập sâu, mùa nào cũng sơ tán thì ở lại đồng nghĩa sống chung với rủi ro vượt ngưỡng. Khi đó chính sách cần một bước đi khác.

Bài toán rời đi hay ở lại sau lũ không phải chuyện riêng của một mái nhà bị nước vây mà là lựa chọn thể chế giữa hai cách tiếp cận an cư. Ở lại thì phải sống an toàn hơn mỗi mùa mưa. Rời đi thì phải sống tốt hơn nơi mới.

Di dời có quản lý (Managed retreat) hay còn gọi là tái định vị có quản lý. Đây là chính sách chuyển cư có kế hoạch đưa con người, nhà cửa và tài sản ra khỏi các khu vực dễ tổn thương do biến đổi khí hậu và thiên tai.

Thuật ngữ này xuất hiện từ đầu thập niên 1990 trong giới kỹ sư bờ biển như một cách ứng phó với nước biển dâng ở Anh.

Hiện nay các cơ quan khoa học quốc tế như IPCC và các nền tảng thích ứng của châu Âu coi đây là một giải pháp đáng tin cậy trước kịch bản mực nước biển dâng có thể tác động đến hàng trăm triệu người vào cuối thế kỷ.

Một số quốc gia thấp trũng đã chuẩn bị kịch bản di cư dài hạn, từng có trường hợp mua đất ở quốc gia lân cận để bảo đảm chỗ ở an toàn nếu lãnh thổ hiện hữu không còn sinh sống được.

Những tháng năm lũ chồng lũ đã dạy chúng ta rằng đắp cao bờ bao hay dựng thêm một hàng bao cát chỉ là giải pháp cục bộ. Cần một khung quyết sách minh bạch để kích hoạt di dời có bồi thường đúng lúc, bảo toàn sinh kế của người dân và tổ chức tái định cư theo cả 2 hướng: tại chỗ khi điều kiện cho phép hoặc liên vùng khi rủi ro đã vượt quá năng lực thích ứng.

Khung pháp lý của Việt Nam không đứng ngoài câu chuyện này. Luật Phòng, chống thiên tai 2013 và luật sửa đổi năm 2020 xác lập nguyên tắc phòng ngừa, ứng phó, khắc phục và trách nhiệm tổ chức di dời dân cư khỏi vùng nguy hiểm.

Đây là nền tảng để chính quyền chủ động xây dựng kịch bản, phân cấp thẩm quyền, bố trí nguồn lực và nhất là chuẩn hóa phương án di dời cả trước mắt lẫn lâu dài.

Khi lũ đã trở thành rủi ro lặp lại với cường độ vượt quá thiết kế của hạ tầng hiện hữu, nhà nước không chỉ cứu hộ mà phải kiến tạo nơi ở an toàn bằng công cụ đất đai và nhà ở.

Luật Nhà ở 2023 quy định rõ nhà ở xã hội phục vụ tái định cư là một cấu phần chính sách cùng với cơ chế thuê mua, tín dụng ưu đãi và tiêu chuẩn hạ tầng thiết yếu. Luật Đất đai 2024 dành một chương về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Còn Nghị định 88/2024/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết cách tính bồi thường, bố trí nơi ở mới, yêu cầu hạ tầng đồng bộ trước khi bố trí dân vào khu tái định cư. Quy định này cho phép địa phương ra quyết định dựa trên rủi ro khách quan, không dựa trên cảm tính của từng vụ việc.

Vậy tiêu chí nào để kích hoạt rời đi có bồi thường. Thứ nhất là tiêu chí rủi ro. Phải đo rủi ro bằng dữ liệu ngập lụt lịch sử, bản đồ ngập theo kịch bản biến đổi khí hậu, tần suất và độ sâu ngập, khả năng thoát lũ tự nhiên của vùng.

Khi xác suất và mức độ thiệt hại dự báo vượt ngưỡng kinh tế kỹ thuật của các giải pháp tại chỗ thì di dời không còn là chọn lựa mà là nghĩa vụ bảo đảm an toàn tính mạng. Thứ hai là tiêu chí khả năng bảo tồn sinh kế tại chỗ.

Nếu cộng đồng phụ thuộc phần lớn vào nông nghiệp trũng thấp, vào hạ tầng bị gián đoạn mỗi mùa và chi phí thích ứng hộ gia đình đã vượt khả năng thì ở lại đồng nghĩa với vòng xoáy nghèo.

Thứ ba là tiêu chí dòng tiền công. Nếu tổng chi ngân sách để nâng nền, xây bờ bao, bơm thoát và cứu trợ lặp đi lặp lại trong 10 năm vượt xa chi phí di dời và xây dựng khu ở mới có dịch vụ công đầy đủ thì kinh tế học công nói rõ câu trả lời.

Những tiêu chí này cần được công khai, có hội đồng khoa học độc lập thẩm định và có lộ trình chuyển tiếp cho từng tiểu vùng, tránh cú sốc thể chế cho người dân.

Rời đi hay ở lại sau lũ?

Khi rủi ro thiên tai vượt ngưỡng chịu đựng, di dời có quản lý trở thành giải pháp giúp người dân tái định cư vùng ngập lũ

ẢNH MINH HOẠ: LŨ LỤT Ở HUẾ

Không phải nơi nào cũng cần rời đi. Có những vùng có thể ở lại nhưng an toàn nếu làm đúng chuẩn kỹ thuật. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước có 2 nhánh giải pháp song hành.

Nhánh thứ nhất là hạn chế hoặc cấm xây dựng ở vùng đỏ rủi ro cực cao, đồng thời mua lại hoặc di dời các công trình hiện hữu.

Sau bão Xynthia 2010, Pháp đưa ra các vùng không được phép tái thiết, kèm các kế hoạch phòng chống ngập nhanh cấp quốc gia.

Mục tiêu không phải lấy đất của người dân mà là cắt đứt vòng lặp rủi ro, giảm thiểu thiệt hại sinh mạng về lâu dài. Nhánh thứ hai là tái thiết có điều kiện ở vùng rủi ro trung bình bằng cách nâng nền, yêu cầu tầng lánh nạn, lối thoát hiểm, kết cấu chịu ngập, cùng hệ thống cảnh báo và sơ tán bắt buộc.

Việc phân vùng đỏ xanh không chỉ là tấm bản đồ, nó là cam kết minh bạch rằng Nhà nước sẽ không cấp phép sai rủi ro và cũng không hứa hẹn những bờ kè bất tận vượt quá sức chịu đựng ngân sách.

Nhật Bản là một ví dụ khác về cách tổ chức lại không gian sau thảm họa biển động năm 2011. Có địa phương chọn tái thiết đô thị theo hướng không mở rộng bừa bãi, dồn khu ở về vùng cao, dành vùng ven biển cho không gian đệm, hạ tầng nghề cá, dịch vụ du lịch an toàn hơn.

Cũng có địa phương dựng hệ thống đê chắn sóng khổng lồ nhưng tranh luận về chi phí môi trường và hiệu quả lâu dài vẫn tiếp tục.

Điều đáng chú ý là cách họ phân vùng và quản trị rủi ro dựa trên dữ liệu và kịch bản, kèm yêu cầu công trình nhà ở phải có tiêu chuẩn chống thiên tai cụ thể.

Với chúng ta, thông điệp cần rút ra là không chọn một đáp án cho mọi nơi. Mỗi lưu vực, mỗi đô thị, mỗi dải ven sông phải có thiết kế riêng và một bộ tiêu chí riêng để chọn ở lại hay rời đi.

Quyền được sống yên ổn là một quyền rất đời thường. Nó vang vọng vào các quyết định lớn hơn nơi miền trũng và bờ sông. Chúng ta không thể để hàng vạn gia đình sống trong tiếng máy bơm, tiếng sơ tán, tiếng lo âu mỗi mùa. Đặt lợi ích công lên trước nghĩa vụ đầu tư công, khung chính sách phải đảm bảo rằng người dân không bị kẹt ở nơi rủi ro chỉ vì thiếu lựa chọn.

Tôn trọng lựa chọn cá nhân là quan trọng nhưng nhà nước có trách nhiệm kiến tạo những lựa chọn tốt như khu tái định cư tử tế, trường học gần, bệnh viện sẵn sàng, cơ hội việc làm nhìn thấy được.

Khi những điều kiện này hiện hữu thì rời đi không còn là quyết định đau đớn mà là một khởi đầu có tính toán.

Kết lại, rời đi hay ở lại không phải câu hỏi đạo lý mà là bài toán chính sách. Ở lại thì phải an toàn. Rời đi thì phải ấm no. Di dời có quản lý chỉ có ý nghĩa khi nâng chất lượng sống của người dân lên một bậc, không thấp hơn nơi cũ.

Luật đã có đủ và kèm kinh nghiệm không xây lại ở vùng đỏ của các nước phát triển. Phần còn lại là cách làm chặt, minh bạch tiêu chí, đặt người dân vào trung tâm của mọi quyết định.

Khi chính sách coi an cư là mục tiêu đầu và cuối, chúng ta sẽ không còn phải nghe câu chuyện bán nhà để chạy khỏi một nỗi bất an lặp lại mà sẽ kể những câu chuyện bắt đầu mới ở nơi cao ráo, an toàn và có tương lai.

 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN