Tuesday, October 7, 2025

Thất Sơn huyền bí: Ông Bảy Do và ‘hoàng đế’ chống thực dân

Tiền thân là Nam Các tự, tọa lạc trên Núi Cấm, được ông Bảy Do (nguyên quán làng An Hội, tỉnh Bến Tre cũ) tạo dựng, chùa có bức trung tôn cao 1,8 m, là tượng Phật lớn nhất vùng Thất Sơn thời bấy giờ nên gọi là chùa Phật Lớn.

“Hoàng đế”… chống thực dân

Năm 1911, trên sườn Núi Cấm (An Giang) xuất hiện một thảo am cùng với một đạo sĩ lực lưỡng, áo tràng đen, chân đất, đầu búi tóc, ngày ngồi thiền, đêm mài gươm luyện võ dưới ánh trăng. Người đó là ông Nguyễn Văn Do, tục gọi Bảy Do, còn tài liệu của Pháp thì gọi ông là Cao Văn Long.

Thất Sơn huyền bí: Ông Bảy Do và 'hoàng đế' chống thực dân

Chùa Phật Lớn ở Núi Cấm ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Chỉ trong một thời gian, am tu đã thu hút người phương xa tới tụ họp rất đông. Trong đó, có nhiều tín đồ của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Họ chung tay giúp ông dựng lên một ngôi chùa, lấy tên là Nam Cực Đường. Sau đó nơi đây biến thành tổng hành dinh của một nghĩa đảng chống Pháp do Phan Xích Long lãnh đạo, tập hợp lực lượng trước khi kéo về Sài Gòn và nổ ra cuộc bạo động gây chấn động dư luận trong nước.

Học giả Vương Hồng Sển trong sách Sài Gòn năm xưa, chép: “Năm Quý Sửu 1913, có vụ Phan Phát Sanh làm cách mạng. Năm ấy, Phan Phát Sanh, tự Lạc, vừa 20 tuổi, con của Phan Núi làm cảnh sát ở Chợ Lớn. Lúc nhỏ không ham học, lớn làm bồi cho Tây, bỗng xưng tên Phan Xích Long, tự cho mình là Đông cung, con vua Hàm Nghi đang bị lưu đày ở Algeria, sắm mão và dây đai vàng, tự tôn làm hoàng đế, chế lựu đạn trái phá, in trát dán khắp các chợ Sài Gòn, Bình Tây, Chợ Lớn, kêu gọi dân chúng nổi dậy chống thực dân Pháp”.

Thất Sơn huyền bí: Ông Bảy Do và 'hoàng đế' chống thực dân

Hồ Thủy Liêm ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Nhưng cuộc bạo động vào đêm 23 rạng sáng 24.3.1913 của “hoàng đế Phan Xích Long” bất thành vì nhà cầm quyền thực dân phát hiện được kế hoạch. Lính Pháp bắt được nhiều tín đồ khi họ đang kéo về Chợ Lớn. Sau đó, Phan Xích Long bị bắt tại Phan Thiết, giải về Sài Gòn. Cả nhóm 111 người bị đưa ra tòa áo đỏ xét xử trong một tuần, từ ngày 5 – 12.11.1913. Trong đó, 54 người được tha bổng, 57 người bị kêu án. Có 6 người bị án chung thân khổ sai. Chỉ có Phan Xích Long, Nguyễn Tri và Nguyễn Hiệp hiện diện và bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn; còn Nguyễn Màng, Trương Phước và Nguyễn Ngọ trốn thoát.

Trước tòa, Phan Xích Long nói thẳng ông chống chính sách thuế khóa nặng nề của chính quyền thực dân và đặt những trái bom trong thành phố là để hăm dọa người Pháp, yêu cầu họ giảm thuế cho dân Việt. Cách chế tạo bom thì ông học ở Xiêm La. Ông nói mình không sợ chết, sẵn sàng chết vì nước và muốn được xử tử.

Cuộc giải cứu bất thành

Nhà văn Sơn Nam trong quyển Cá tính của người miền Nam, viết: 3 năm sau khi Phan Xích Long bị bắt, phong trào chống Pháp lại phát khởi. Giữa lúc bên trời Tây, Pháp thua liểng xiểng thì đêm 14.2.1916 đảng kín Thiên Địa Hội tổ chức cuộc phá khám định “giải cứu đại ca” khỏi nhà tù. Rất nhiều ghe thuyền tứ xứ chen nhau đậu dưới gầm cầu Khánh Hội, chờ tới 3 giờ khuya là khởi sự.

Dưới khẩu hiệu “cứu đại ca”, khoảng 300 người từ các nơi do Nguyễn Hữu Trí chỉ huy, bí mật hội quân về Sài Gòn với trang phục quần đen áo trắng, khăn trắng quấn cổ. Họ uống bùa, cổ mang phù chú, tay cầm gươm mác kéo tới Khám Lớn Sài Gòn. Cờ của họ có hàng chữ “Thánh minh vương Phật” giữa các chữ Bửu Sơn Kỳ Hương. Nhà văn Tạ Chí Đại Trường dẫn tài liệu của Georges Coulet xác định người cầm cờ là Mã Văng, tức ông Bảy Do, Chưởng giáo Nam Cực Đường trên núi Cấm.

Thất Sơn huyền bí: Ông Bảy Do và 'hoàng đế' chống thực dân

Tượng Phật Di Lặc trước chùa Phật Lớn ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Nhưng cuộc giải cứu Khám Lớn Sài Gòn cũng bất thành vì gươm mác bùa chú làm sao chống lại với súng đạn nên 2 người bị bắn gục tại cửa Khám Lớn; 4 người bị đuổi theo bắn ngã ở Xóm Dầu trong Chợ Lớn. Buổi sáng hôm đó, bất kể đàn ông đàn bà, ai mặc quần đen áo trắng nếu tình nghi thì bị bắt nhốt rồi đưa ra xử ở tòa đại hình. Kết cuộc, có 57 người bị hành hình tại Đồng Tập trận trong 2 đợt.

Theo tác giả Nguyễn Văn Hầu trong quyển Nửa tháng trong miền Thất Sơn, do mật thám cài người giả làm bổn đạo nên tin tức bị lộ. Năm 1917, Pháp lại đem lính vào vây Nam Cực Đường, bắt gặp gươm giáo, 6.000 chiếc đũa và hàng chục cái chảo đụn cỡ lớn dành nấu cơm cho hàng ngàn người ăn. Bị quy tội làm quốc sự, ông Bảy Do bị bắt cùng với hơn 10 môn đệ, số còn lại chạy thoát vào rừng. Ông bị đưa về giam ở Khám Lớn Sài Gòn, bị kêu án 5 năm cấm cố rồi bị đày ra Côn Đảo. Ông đã cắn lưỡi tử tiết trong đề lao ngày rằm tháng 3 âm lịch năm Bính Dần 1926.

Sau khi Bảy Do bị bắt, ngôi chùa hoang tàn. Tín đồ nhiều lần xin phép tu sửa lại, nhưng nhà cầm quyền nhất quyết không cho. Người ta lấy cây lá làm cái trại để che mưa nắng cho tượng Phật. Sau đó, có ông Trần Văn Lầu (cựu hương quản ở An Hóa, tỉnh Mỹ Tho cũ) đến núi Cấm thấy cảnh chùa hoang phế bèn lên chùa Linh Sơn, Sài Gòn, nhờ ông Trần Nguyên Chấn đứng ra xin phép tái thiết chùa Phật Lớn nhưng vẫn không được. Cuối cùng, ông Chấn kêu ông Lầu cất cái am lợp lá, nhưng lại có kẻ báo quan nên mật thám vào Núi Cấm tra xét.

Bấy giờ, chủ tỉnh Châu Đốc có văn bản buộc ông Chấn phải dỡ bỏ cái am mới cất ngay lập tức. Nhưng ông trả lời rằng theo tục lệ An Nam, không để Phật ngồi giữa trời dầm mưa, dang nắng. Chủ tỉnh Châu Đốc lại tiếp tục yêu cầu dỡ am nhưng lần này ông Chấn đáp: “Cái am lỡ cất rồi. Tôi là người theo đạo Phật, sợ phạm tội nên không dám dỡ”. Dùng dằng mãi rồi chính quyền cũng chịu thua, cái am còn và tượng Phật Lớn được bảo tồn.

Về sau, chùa Phật Lớn được trùng tu. Pho tượng được bảo tồn, mặc dù quá nhỏ so với tượng Di Lặc cao hơn 33 m được xây dựng sau này trên triền núi bên hồ Thủy Liêm gần đó. 

 

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN