Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là động lực quan trọng trong việc nâng tầm doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn ba thập kỷ qua, quá trình này đã đem lại nhiều kết quả tích cực, chứng minh tính đúng đắn của việc chuyển đổi sở hữu, song cũng bộc lộ những điểm nghẽn đáng lo ngại, khiến tiến độ chậm lại, thậm chí giậm chân tại chỗ trong vài năm gần đây.
Hiệu quả rõ rệt nhưng tiến độ chậm
Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương đúng đắn, được khởi xướng từ những năm 1990, nhằm tái cấu trúc khu vực kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu quả quản trị và thúc đẩy dòng vốn xã hội tham gia sản xuất, kinh doanh.
Không ai có thể phủ nhận những tác động tích cực mà cổ phần hóa mang lại. Vinamilk là một minh chứng điển hình. Từ một DNNN quy mô khiêm tốn, sau hơn 20 năm cổ phần hóa (từ năm 2003), Vinamilk đã vươn lên thành doanh nghiệp sữa hàng đầu khu vực, với doanh thu hằng năm trên 60.000 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế xấp xỉ 10.000 tỷ đồng và vốn hóa thị trường ở mức hàng tỷ USD, hiện diện tại nhiều thị trường quốc tế. Sabeco cũng là một câu chuyện thành công: Sau cổ phần hóa, doanh nghiệp không chỉ củng cố vị thế dẫn đầu ngành bia trong nước, đạt doanh thu hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm, mà còn nâng cao quản trị và mở rộng sức cạnh tranh trên thị trường. Những ví dụ này cho thấy, khi cổ phần hóa đi đúng lộ trình, khi lợi ích của nhà nước, nhà đầu tư và người lao động được dung hòa sẽ mang lại sự bứt phá rõ rệt.
Song bên cạnh những điển hình thành công, tiến độ thực thi cổ phần hóa hiện nay là một bức tranh ảm đạm. Giai đoạn 2021 – 2022, cả nước chỉ cổ phần hóa được 05 doanh nghiệp. Đáng chú ý, từ năm 2023 đến hết quý I/2025, chưa có thêm bất kỳ doanh nghiệp nào hoàn tất quy trình, dù Bộ Tài chính đặt mục tiêu cho giai đoạn 2023 – 2025 là cổ phần hóa 30 doanh nghiệp, thu về 36.823 tỷ đồng.
Nguyên nhân của sự ì ạch không nằm ở chủ trương, vấn đề nằm ở khâu thực thi, nơi những rào cản pháp lý, tâm lý “sợ sai” và cơ chế chịu trách nhiệm còn nhiều bất cập. Đất đai – yếu tố quan trọng nhất khi định giá doanh nghiệp thường là điểm nghẽn lớn. Nhiều lô đất vàng chưa được xác định rõ quyền sử dụng, nhiều tài sản vô hình chưa được định giá minh bạch, khiến nhà đầu tư e dè, trong khi các cơ quan quản lý lo ngại rủi ro, trách nhiệm,… khiến quá trình cổ phần hóa trở nên chậm chạp, thậm chí trì trệ.
Những thất bại của Licogi 13, Tổng công ty Sông Hồng hay Interserco sau cổ phần hóa là lời cảnh tỉnh rõ ràng. Khi cổ phần hóa chỉ dừng ở việc chuyển đổi sở hữu trên giấy, thiếu đổi mới nội tại, thiếu kiểm soát minh bạch, doanh nghiệp dễ rơi vào khủng hoảng, nợ nần, thậm chí phá sản. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn: Liệu cổ phần hóa chỉ là “bán bớt” vốn nhà nước hay thực sự là quá trình tái cấu trúc toàn diện để doanh nghiệp bứt phá?
Cần bước chuyển mình mạnh mẽ
Nhiều chuyên gia nhận định, cổ phần hóa đã mang lại hiệu quả rõ rệt khi phần lớn doanh nghiệp sau chuyển đổi hoạt động có lãi, đóng góp nhiều hơn vào ngân sách và tạo động lực tăng trưởng. Tuy nhiên, tiến độ cổ phần hóa hiện nay quá chậm, chất lượng chưa đồng đều, trong khi những vướng mắc về đất đai, định giá và minh bạch tài chính vẫn chưa được xử lý triệt để.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong chỉ rõ, nút thắt lớn nhất nằm ở đất đai và định giá doanh nghiệp, đặc biệt là tình trạng định giá thấp, thiếu minh bạch trong xử lý đất công khiến nhà đầu tư e ngại, cơ quan quản lý lúng túng và tiến trình bị kéo dài. Đây là hồi chuông cảnh tỉnh: Nếu không có các biện pháp quyết liệt và kịp thời, cổ phần hóa DNNN có nguy cơ đánh mất ý nghĩa chiến lược, biến thành một thủ tục hình thức, không tạo ra động lực đổi mới thực chất cho nền kinh tế.
Để tiến trình này đạt hiệu quả, các chuyên gia nhấn mạnh, Việt Nam cần thay đổi tư duy quản trị cổ phần hóa, từ “thoái vốn” sang “tái cơ cấu”. Không chỉ bán bớt vốn nhà nước, mà phải đồng thời nâng cao năng lực quản trị, áp dụng chuẩn mực quốc tế và thu hút sự tham gia thực chất của các nhà đầu tư chiến lược. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chỉ khi Nhà nước minh bạch về tài sản, kiên quyết trong điều hành và duy trì giám sát sau cổ phần hóa, khu vực doanh nghiệp mới phát huy tối đa tiềm năng.
Đồng thời, cần siết chặt trách nhiệm của người đứng đầu. Khi tiến độ chậm trễ hoặc kém hiệu quả, không thể chỉ dừng ở những lời nhắc nhở chung chung. Cơ chế đánh giá, xử lý trách nhiệm phải rõ ràng, gắn với kết quả cụ thể. Song song với đó, cần hoàn thiện hành lang pháp lý, đặc biệt về định giá tài sản vô hình và xử lý đất đai,… Đây chính là chìa khóa khơi thông niềm tin của nhà đầu tư.
Đã đến lúc Chính phủ phải hành động quyết liệt: Hoàn thiện pháp lý, siết trách nhiệm, khơi niềm tin nhà đầu tư, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội cho doanh nghiệp phát triển bền vững.
Nguồn: vccinews.vn