Saturday, October 11, 2025

Tăng trưởng trong biến động: Việt Nam cần chiến lược dài hạn và chính sách phối hợp hiệu quả

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động, Việt Nam cần tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như đầu tư vào cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, đầu tư công hiệu quả, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, phát triển đổi mới sáng tạo với các ngành công nghệ mới,…

Đây là những chia sẻ của ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng của ADB tại Việt Nam.

Tăng trưởng trong biến động: Việt Nam cần chiến lược dài hạn và chính sách phối hợp hiệu quả

Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng ở mức 8,3 đến 8,5% trong năm 2025, khá xa so với dự báo của ADB. Theo ông, tại sao lại có sự chênh lệch như vậy?

Trước hết chúng ta có thể nhìn thấy rõ mục tiêu tăng trưởng của Chính phủ là mang tính định hướng và sẽ kèm theo các biện pháp chính sách phù hợp. Ở góc độ mục tiêu và kế hoạch thì đây là một tham vọng rất lớn. Ở góc độ dự báo, chúng tôi dựa trên một số chỉ số có thể quan sát được, trong đó có chỉ số về môi trường kinh tế thế giới và khu vực ảnh hưởng đến tăng trưởng của Việt Nam; và các kết quả tăng trưởng trong quá khứ cũng như những tháng đầu năm 2025. Để đạt được kết quả tham vọng trên thì đôi khi chính sách cũng có  độ trễ nhất định, và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của Chính phủ trong việc triển khai chính sách hiệu quả đến đâu để giảm được độ trễ đấy.

Việc định hướng và các biện pháp chính sách Chính phủ đưa ra để thực hiện cần sự phối hợp tổng thể giữa các cơ quan Trung ương, các bộ ban, ngành cũng như giữa Trung ương với địa phương, giữa các cơ quan tỉnh xuống đến cấp xã. Thời gian vừa qua, việc cải cách hệ thống chính quyền 2 cấp, cải cách tổ chức của Chính phủ nhắm đến mục tiêu là nâng cao hiệu quả và cắt giảm chi phí, nhưng trong ngắn hạn, rõ ràng là “vừa chạy vừa xếp hàng”, tức hiệu quả triển khai sẽ có những vướng mắc – trong kinh tế học gọi là “chi phí điều chỉnh” – adjustment cost. Bởi vậy, để thực hiện hiệu quả chính sách trên còn phụ thuộc rất nhiều vào các tình huống thực tế.

Việt Nam đã đưa ra một số nghị quyết quan trọng, trong đó có Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân. Ông đánh giá thế nào về các nghị quyết này đối với sự phát triển kinh tế và tăng trưởng của Việt Nam?

Để phát triển kinh tế tư nhân, bên cạnh Nghị quyết 68 còn nhiều nghị quyết liên quan, đặc biệt là Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ. Bởi khu vực kinh tế tư nhân muốn tăng trưởng và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì việc phát triển khoa học công nghệ là rất quan trọng. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam đang đi sau trong việc đầu tư vào khoa học công nghệ, nếu không đầu tư nâng cấp năng lực khoa học công nghệ để bắt kịp trình độ trung bình của thế giới thì có thể Việt Nam sẽ đánh mất cơ hội để tăng trưởng. Không thể tách rời Nghị quyết 68 khỏi những nghị quyết liên quan, vì đây đều là những nghị quyết quan trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tăng trưởng trong biến động: Việt Nam cần chiến lược dài hạn và chính sách phối hợp hiệu quả

Ở góc độ vĩ mô, động lực của nền kinh tế trong nước chính là thúc đẩy tiêu dùng và đầu tư. Khu vực công vừa có chi tiêu công vừa có đầu tư công, nhưng Chính phủ cũng không thể tạo được động lực cho cả nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh mà cần sự tham gia tích cực của khu vực kinh tế tư nhân – vừa thúc đẩy nhu cầu nội địa, kích thích tiêu dùng vừa tăng cường đầu tư tư nhân cho nền kinh tế.

Thực tế cho thấy sức cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân tương đối hạn chế. Bởi khu vực này chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên khả năng huy động nguồn lực chưa nhiều. Nếu nhìn vào những đóng góp của doanh nghiệp nội địa trong xuất khẩu thì họ chỉ đóng góp khoảng 25 – 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, còn lại hơn 70% là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, còn rất nhiều dư địa để doanh nghiệp tư nhân phát triển.

Nghị quyết 68 và các nghị quyết khác được ban hành gần đây là những chính sách rất đúng hướng, nhưng làm thế nào để thực hiện được các biện pháp cải cách, không chỉ tập trung trực tiếp vào khu vực tư nhân mà còn cần phải đầy đủ và toàn diện như nâng cao hiệu quả môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao đầu tư khoa học công nghệ, từ đó nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và tăng vai trò trong việc trở thành động lực tăng trưởng.

Đặc biệt, đầu tư hạ tầng có vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng trong trung và dài hạn của Việt Nam. Khi các dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động càng sớm thì càng đóng góp tốt cho tăng trưởng kinh tế – xã hội.

Bên cạnh hạ tầng cứng như hạ tầng giao thông, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số thì cũng cần chú trọng đầu tư về hạ tầng mềm, đó là giáo dục và y tế. Bởi đây là điều kiện cần thiết để có thể xây dựng được nguồn nhân lực quan trọng đóng góp vào tăng trưởng của Việt Nam trong tương lai. Đây cũng là những lĩnh vực mà Việt Nam hoàn toàn có thể tăng cường đầu tư và hiệu quả đầu tư sẽ rất khả quan.

Điều quan trọng nhất là Việt Nam cần tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Khi hoạt động đầu tư kinh doanh hiệu quả thì các ngành hàng có tiềm năng tăng trưởng tốt sẽ phát triển mạnh mẽ.

ADB có khuyến nghị Việt Nam nên phối hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, bởi nếu thực hiện kích thích tài khóa không đủ tốt thì tăng trưởng bền vững sẽ gặp nhiều thách thức. Ông có thể phân tích rõ hơn về vấn đề này và  đưa ra khuyến nghị chính sách để hạn chế rủi ro?

Về chính sách tiền tệ, hiện lãi suất của ngân hàng Trung ương đang ở mức tương đối thuận lợi, mức lãi suất này để có không gian mở rộng thêm là tương đối hẹp. Lãi suất tái cấp vốn hiện là 4,5% trong khi lạm phát là khoảng 3,3%, và trong trường hợp lạm phát có xu hướng đi lên thì  lãi suất thực sẽ quanh mức khoảng 1%. Như vậy, về chính sách lãi suất như hiện nay là phù hợp.

Ngân hàng Nhà nước cũng đang điều chỉnh thanh khoản thông qua hoạt động thị trường mở và việc điều hành thanh khoản của Ngân hàng Nhà nước cũng tương đối thuận lợi so với tăng trưởng tín dụng thời gian qua. Viêc điều hành thanh khoản của Ngân hàng nhà nước cũng rất phù hợp với tình hình hiện nay, tạo điều kiện cho nhu cầu phát triển của thị trường.

Về chính sách tỷ giá, Ngân hàng nhà nước duy trì dao động 5% lãi suất xung quanh tỷ giá trung tâm. Và cho đến giờ biến động tỷ giá trên thị trường cũng nằm trong phạm vi chính sách đó.

Ngoài ra, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam hiện tương đối cân bằng, chưa có nhu cầu cần can thiệp tỷ giá nên chính sách tỷ giá như hiện nay cũng đáp ứng được mục tiêu chính sách của Chính phủ.

Trên thị trường, có thể thấy đồng Việt Nam đang mất giá với đồng đô la Mỹ, mà đồng đô la Mỹ thì mất giá so với các đồng tiền khu vực. Điều này khiến lãi xuất khẩu Việt Nam tương đối cạnh tranh. Trong  bối cảnh đối phó với áp lực thuế carbon thì việc giá cả xuất khẩu có xu hướng cạnh tranh hơn là một điều kiện rất tích cực. Tuy nhiên, nếu mặt bằng giá cả của thị trường thế giới tăng cao thì việc đồng Việt Nam mất giá sẽ làm cho giá hàng hóa nhập khẩu cũng tăng cao. Trong tình hình hiện nay thì việc giá hàng hóa nhập khẩu tăng, áp lực đến lạm phát cũng sẽ tăng một chút nhưng chưa đáng kể  đến cái mức cần phải can thiệp về tỷ giá. Như vậy, ở góc độ chính sách tiền tệ và tỷ giá cho đến thời điểm này là phù hợp với điều kiện vĩ mô.

Về phối hợp chính sách, chính sách đầu tư công, chi tiêu công là động lực để thúc đẩy đầu tư tư nhân và tiêu dùng nội địa, các doanh nghiệp tư nhân trong nước có thể tận dụng chính sách tăng trưởng tín dụng để đẩy mạnh đầu tư kinh doanh. Đây chính là sự phối hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, cho dù trong ngắn hạn chưa thấy ngay được hiệu quả. Tuy nhiên trong dài hạn,  nhu cầu về tín dụng đầu tư thực tăng lên sẽ đẩy mạnh hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.

Trân trọng cảm ơn ông!

 

 

PHIM ĐẶC SẮC
TIN MỚI NHẬN
TIN LIÊN QUAN