Tọa lạc gần đỉnh núi Cấm (An Giang), chùa Vạn Linh có vị thế rất đẹp, nằm dưới chân vồ Bồ Hong ở độ cao khoảng 600 m, mặt tiền hướng về hồ Thủy Liêm. Đường vào chùa có hai hàng cây tùng bách tán che rợp lối đi, tỏa bóng mát quanh năm.
Trước sân chùa Vạn Linh xây nhiều bảo tháp, nhưng nổi bật là Bảo tháp Quan Âm cao 9 tầng. Phía trong là ngôi chánh điện cũng được xây nhiều tầng như tòa tháp uy nghi lộng lẫy. Nhìn quang cảnh ấy khó mà hình dung ngày xưa đây là ngôi chùa Lá.

Cổng chùa Vạn Linh ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Người khai sơn chùa Vạn Linh là Hòa thượng Thiện Quang. Theo ghi chép trên bảo tháp, ngài tên thật là Nguyễn Văn Xứng, húy Hồng Xứng, sinh năm Ất Mùi 1895, quê quán xã Tân Bình, H.Mỏ Cày, Bến Tre cũ. Năm 1918, ngài lên núi Két tìm thầy trị bệnh. Ở đó 3 năm, ngài gặp được Hòa thượng Thích Trí Thiền rồi xin quy y, tập sự làm công quả tại Tổ đình Phi Lai (Tịnh Biên). Năm 1927, ngài xuất gia rồi xin phép Hòa thượng Thích Trí Thiền lên núi Cấm cất am tu hành.
Lúc đầu chỉ là cái am tranh nhỏ để ẩn tu. Dần dần, người ta nghe tiếng nên tìm đến quy y và xuất gia ngày càng đông. Rồi am tranh biến thành chùa. Năm 1946, kháng chiến chống Pháp bùng nổ, chính quyền thực dân ra lệnh không cho người dân ở trên núi Cấm nữa, chùa bị bỏ hoang, Hòa thượng Thiện Quang lên Sài Gòn lánh nạn, ở tạm tại chùa Linh Bửu (gần cầu Bông).

Chùa Vạn Linh có vị thế rất đẹp, nằm dưới chân vồ Bồ Hong ở độ cao khoảng 600 m ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Ngày 20.11 năm Quý Tỵ 1953, sau khi dự lễ thượng lương cho bổn đạo trở về, Hòa thượng không chịu ăn, chỉ uống nước. Ngài bảo, ăn cũng vậy, không ăn cũng vậy, để cho nó sạch. Ngài cũng không uống thuốc vì “uống cũng vậy, không uống cũng vậy”. Bốn ngày sau đó ngài bảo đệ tử chuẩn bị đưa ngài về (ý nói ngài sẽ về Tây phương). Hai ngày liên tiếp, Hòa thượng chỉ niệm Phật. Đến sáng ngày 26.11 năm Quý Tỵ, Hòa thượng viên tịch. Nhưng đến hôm sau, trong lúc chờ thân quyến tới, da thịt ngài vẫn mềm mại hồng hào như người sống.
Sau năm 1954, đệ tử của ngài là Hòa thượng Thiện Thành trở về núi Cấm. Thấy ngôi chùa đổ nát, liền cho dựng tạm một ngôi chùa bằng cây lá để có nơi tu hành, nên dân gian gọi là chùa Lá.

Trong khuôn viên chùa Bồng Lai ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Bấy giờ, xung quanh chùa còn hoang vu, nhiều thú dữ. Vào một đêm nọ, có 2 con cọp vào chùa, phủ phục bên bàn thờ Phật. Sau đó, người ta thấy nền đất hai bên bàn thờ Phật luôn bóng láng vì tối nào 2 con cọp cũng về nằm để nghe tụng kinh. Người địa phương còn bảo “cọp núi Cấm là cọp tu, còn cọp núi Bà Đội Om mới là cọp ăn thịt người”. Trên núi Cấm hiện có hàng chục hang Ông Hổ và nhiều điện thờ, có nơi tôn cọp là một vị sơn thần.
Dị nhân ở vồ Bồ Hong
Bồ Hong là vồ đá cao nhất trong 5 vồ của núi Cấm, gồm vồ Thiên Tuế, vồ Ông Bướm, vồ Bà, vồ Đầu và Bồ Hong. Với độ cao hơn 700 m, núi Cấm cũng là ngọn núi cao nhất trong vùng Thất Sơn.

Một góc chùa Bồng Lai ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Từ chùa Vạn Linh lên đỉnh Bồ Hong khoảng gần 200 m, ở đó có một điện thờ gọi là điện Bồ Hong. Tác giả Nguyễn Văn Hầu trong quyển Thất Sơn mầu nhiệm chép: Trong cuộc dẹp loạn vùng biên giới của Quản cơ Trần Văn Thành, có một thuộc tướng rất tài ba và lạ lùng, làm quân giặc lắm phen khiếp sợ. Đó là ông Hai Lãnh, về sau người ta gọi là Đạo Lãnh. Ông Hai Lãnh võ nghệ cao cường, thông bùa thư và nho học. Khoảng năm 1841, Hai Lãnh gặp Quản cơ Thành tại Châu Đốc và xin tòng quân.
Năm Quý Mão 1843, Quản cơ Thành mang binh đi dẹp loạn ở vùng Thất Sơn. Ở trận Láng Cháy, Hai Lãnh đã giúp Quản cơ Thành chiêu dụ được hai tướng giặc lợi hại là Bướm và Vôi về hàng. Tương truyền, thuật “gồng” của ông rất đáng sợ. Cũng trong năm ấy, trong lúc dẹp loạn ở Giang Thành (Hà Tiên), ông một mình vào trận mà không sợ gươm đao, chỉ bằng tay không đã bắt được tướng giặc. Có lần đang đi dọc đường đói lả, thấy có người nấu bánh tét trong trã đang sôi sùng sục, ông ghé lại, thò tay vào nước sôi lấy bánh ra mà không phỏng. Người ta tưởng ông là thần, nên gọi là Tà Lãnh.

Trước sân chùa Vạn Linh xây nhiều bảo tháp ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Khoảng năm Ất Tỵ 1845, trong lúc ông dẫn binh đi tuần sát ở biên thùy thì bị một toán giặc phục kích. Bị đánh bất ngờ nên binh sĩ bỏ chạy tán loạn, còn lại một mình ông vừa đánh vừa thoát vòng vây rồi lạc vào đất Chân Lạp, không tìm được đường cũ trở về. Toán binh thoát được chạy về An Giang báo cho Quản cơ Thành biết thì trời đã sáng. Khi Quản cơ Thành dẫn binh cứu viện tới thì không tìm được ông Hai Lãnh.
Sau khi hay tin, bà Hai cùng con gái lặn lội đi tìm kiếm mấy tháng trời mà không có tin tức gì. Nghĩ chồng đã chết, bà trở về núi Phi Lai chờ ít lâu nữa rồi tự thiêu mình. Bởi vậy trong dân gian còn lưu truyền câu ca dao: “Bà Hai am tự thâm tình/Hỏa thiêu thân thể ấn hình Phi Lai”.

Vồ Bồ Hong ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Trong khi đó, từ khi chạy lạc sang đất Chân Lạp, ông Hai Lãnh phải giả dạng thường dân và vất vả kiếm sống ở tận Gò Sặt (Pursat). Đến cuối năm 1846, ông tìm đường về nước thì bãi bể hóa nương dâu. Không gặp được vợ con, ông buồn bã xin Quản cơ Thành cho tìm nơi dưỡng tính tu tâm rồi trở thành đồ đệ của Phật thầy Tây An với danh xưng Đạo Lãnh. Cũng từ đó, trên vồ Bồ Hong ở núi Cấm xuất hiện hình ảnh tu trì khổ hạnh của một bậc dị nhân. Người ta bảo rằng ông đã được chứng quả trên non tiên. (còn tiếp)
Nguồn: thanhnien.vn